Năm cuối đại học của tôi, ông nội ốm nặng và có ý gọi tôi về. Trong hơn mười đứa cháu nội, tôi là đứa cháu ông có phần yêu thương hơn cả. Khi tôi về thăm thì ông đã yếu lắm rồi. Ông bảo ông mệt, xương đau nhức như muốn gãy vụn ra. Tối đó tôi ngủ cùng ông như hồi tôi còn là thằng bé con. Tối đó lần đầu tiên ông kể cho tôi nghe câu chuyện cuộc đời ông. Mỗi câu chuyện như một mảnh ghép dần vẽ nên bức tranh hoàn chỉnh. Và ở cái tuổi gần đất xa trời, mảnh ghép của thời trai trẻ vẫn làm ông trăn trở không thôi. Ông mệt, giọng ông nói nhỏ đứt quãng, nhưng tôi nghe không dứt ra được.
![]() |
| Minh họa Đỗ Dũng |
Một tháng sau đó, vào đúng ngày cuối cùng của năm cũ, ông nội tôi mất. Trong chiếc cặp da sờn màu ông để lại, tôi tìm thấy những chiếc huân chương kháng chiến với ngôi sao màu vàng gắn dưới dải ruy băng đỏ đựng trong chiếc hộp nhựa. Tôi tìm thấy những bức ảnh cũ của ông thời còn trai trẻ. Nhìn ảnh tôi mới hiểu tại sao mấy bà dì bà o ai cũng bảo tôi giống ông nội hồi trẻ như đúc. Ở ngăn trong cùng có khóa kéo của chiếc cặp, tôi tìm thấy một tập thư tay được buộc bằng dây gai cẩn thận cùng một cuốn sổ cũ bìa da màu nâu, dường như là cuốn nhật kí ngày xưa của ông. Kẹp giữa cuốn sổ là một bức ảnh đen trắng ông chụp cùng một người con gái rất đẹp. Phía sau bức ảnh có ghi dòng chữ nghiêng nét mảnh màu mực tím đã phai nhưng vẫn còn có thể đọc rõ: Kỉ niệm Sài Gòn 4/1976. Tôi cũng tìm thấy một chiếc túi vải nhỏ. Tôi mở ra và thấy trong đó là hai đầu đạn bằng đồng. Lật giở từng trang nhật kí và đọc các bức thư, tôi dần hiểu một phần quãng đời thời trai trẻ của ông. Câu chuyện mà tới tận lúc cuối đời ông mới kể cho tôi nghe.
Làng tôi nằm ở ven biển tận cuối cùng phía Nam của mảnh đất xứ Thanh. Những ngày trời yên biển lặng, từ góc làng nơi sát rặng phi lao phía bờ cát, có thể nhìn rõ chuỗi mười tám hòn đảo lớn bé, gọi là Thập Bát Mã Sơn, bởi chúng trông giống như một đàn ngựa đang thong dong gặm cỏ giữa thảo nguyên bao la. Hòn đảo lớn nhất trong chuỗi đảo đó là Hòn Mê. Trong những năm Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, Hòn Mê là căn cứ địa quân sự phòng thủ bờ biển quan trọng. Bộ đội trên đảo đã lập nhiều chiến công bắn rơi và bắn cháy máy bay và tàu chiến Mỹ. Nhưng cũng bởi vậy mà làng tôi phải hứng chịu một lượng lớn bom đạn trút xuống. Người làng tới bây giờ còn kể lại nhiều cái chết thương tâm vì bom rơi đạn lạc. Năm 1966, ông nội tôi, khi đó đang học năm cuối phổ thông, đã viết đơn tình nguyện bằng máu xin nhập ngũ. Năm ấy, hầu như thanh niên trai tráng của làng đều lên đường đi bộ đội. Người làng chỉ còn ông bà già, phụ nữ và trẻ con. Bóng đàn ông vắng hẳn.
Trong quân ngũ, ông tôi được phân về trung đoàn pháo binh cơ giới. Sau bốn tháng huấn luyện, đơn vị của ông lên đường vào chiến trường. Ông tôi chinh chiến chủ yếu ở vùng hậu cứ chiến trường Campuchia. Từ Mậu Thân 1968 tới tận trước Hiệp định Paris 1973, chiến trường mặt trận phía Nam lúc nào cũng rất khốc liệt. Ông tôi bảo người làng đi bộ đội thì hầu hết đều nằm lại ở chiến trường B. Ông may mắn nên vẫn còn giữ được mạng sống. Có lần khẩu đội pháo bốn người của ông đang chiến đấu thì một tên lính ngụy luồn sâu ném lựu đạn từ phía sau chỉ cách khẩu đội pháo chừng mươi mét. Lựu đạn nổ, một đồng đội hi sinh tại chỗ, hai người bị thương nặng, còn ông mảy may không bị thương gì. Mùa Xuân 1975, trung đoàn pháo binh của ông theo bước hành tiến như thác lũ của năm cánh quân tiến về giải phóng Sài Gòn. Chàng thanh niên trẻ vùng quê nghèo Bắc Trung Bộ, trong những năm đánh Mỹ chiến đấu ở vùng rừng núi biên giới Tây Nam, lần đầu tiên bắt gặp một thành phố hoa lệ đẹp nhất một góc địa cầu thời đó thì không khỏi choáng ngợp. Sài Gòn đẹp quá.
Sau ngày giải phóng, bao đồng đội được trở về quê cũ, nhưng ông nội tôi nhận nhiệm vụ ở lại tham gia công tác huấn luyện pháo binh cho Quân khu 9. Dù đã giải phóng nhưng đất nước vẫn chưa hoàn toàn im tiếng súng. Mối nguy chiến tranh có thể bùng phát bất cứ lúc nào ở vùng biên giới Tây Nam và khắp dải biên cương phía Bắc. Đơn vị pháo binh của ông đóng doanh trại tại thị xã Bến Tre. Dự kiến công tác huấn luyện kéo dài trong hai năm rồi ông sẽ được điều động trở ra Bắc để tiếp tục học lên đại học. Những ngày đầu sau giải phóng, cơ sở vật chất của đơn vị pháo binh hầu hết là tiếp quản lại của Quân lực Sài Gòn cũ. Có những doanh trại vẫn còn nguyên vẹn nên thuận lợi cho việc huấn luyện và ăn ở của chiến sĩ. Công tác huấn luyện trên thao trường có phần vất vả nhưng không là gì so với những ngày gian nan trong chiến đấu.
Thế nhưng hai tháng sau đó, sau một ngày trở về từ thao trường, ông tôi thấy người mệt lả lên cơn nóng lạnh liên tục, người vã mồ hôi như tắm mà lại rét run cầm cập, đầu đau như búa bổ. Bác sĩ đơn vị tới thăm khám và yêu cầu nhập viện ngay lập tức. Ở bệnh viện, các bác sĩ chẩn đoán ông bị thương hàn. Lúc ốm đau ông thấy tủi thân khi không có người thân nào kề bên chăm sóc. Những năm kháng chiến luôn sát cánh cùng đồng đội, nỗi nhớ nhà vì vậy mà vơi bớt. Người hi sinh đã nằm lại chiến trường, người còn đã trở về quê cũ. Một mình nằm trong bệnh viện ở một nơi xa quê nhà tới cả ngàn cây số, ông tự thấy thương mình mà ứa nước mắt.
Thế nhưng duyên phận lại đến từ nỗi buồn đó. Nỗi buồn của chàng trai Bắc Kỳ lọt vào ánh mắt của cô gái đất Đồng Khởi một lần cô vào viện chăm cha bị bệnh và nằm cùng buồng với ông tôi. Cô thấy anh bộ đội Bắc Kỳ nằm một mình mặt buồn rười rượi. Cô thấy thương anh bộ đội tới bữa ngồi nhai cơm trệu trạo ở một góc giường. Cô mạnh dạn tới gần hỏi chuyện. Vậy là lần đầu tiên gặp gỡ của ông và người con gái sau này ông đem lòng yêu thương lại ở một nơi thật đặc biệt, ở trong bệnh viện. Cô gái có cái tên thật đẹp, Hoài Hương, đẹp như người cô vậy. Hoài Hương có mái tóc ngắn ôm lấy khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt to sáng lấp lánh và khuôn miệng nhỏ xinh.
Sau mấy ngày ở viện chăm cha ốm, câu chuyện qua lại, hai con người trẻ tuổi biết thêm ít nhiều về hoàn cảnh của nhau. Và dường như hai người ở hai thế giới hoàn toàn khác xa nhau. Gia đình Hoài Hương có một cửa hàng lớn ở thị xã. Anh trai cô là sĩ quan cấp úy trong quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau ngày giải phóng anh trai cô phải trình diện Ban quân quản địa phương và đang đi học tập cải tạo. Cửa hàng của gia đình sau ngày giải phóng vẫn còn mở nhưng chỉ bán cầm chừng. Một thời gian sau thì do không còn nguồn cung cấp hàng, cha cô lại đau ốm luôn nên cửa hàng cũng phải đóng cửa. Hoài Hương mới tốt nghiệp Đại học Văn khoa Sài Gòn hồi cuối năm 1974 rồi về dạy văn ở trường cấp ba gần nhà.
Câu chuyện của cô giáo viên dạy văn và chàng lính pháo binh dần thân thiện dễ dàng trao đổi hơn. Dường như mới gặp mặt không lâu nhưng cả hai đã có thiện cảm với nhau. Hoài Hương có nhiều điều muốn hỏi về cuộc sống của những người lính Bắc Việt mà cô chỉ biết qua những lời kể. Hoài Hương rất ngạc nhiên khi biết những người lính Bắc Việt đi chiến đấu mà không được nhận lương tháng như anh trai của cô. Họ đi chiến đấu, không tiếc máu xương đơn giản vì niềm tin vào một ngày mai độc lập thống nhất nước nhà. Trong bệnh viện mọi người dễ thông cảm nhau hơn vì cùng hoàn cảnh ốm đau. Hơn một tuần sau, ông tôi đã thấy trong người khỏe hơn. Cha của Hoài Hương cũng đã xuất viện. Cô và cha mời ông tôi khi nào rảnh thì tới nhà chơi.
Tình cảm người lính trẻ Bắc Việt và cô giáo dạy văn cứ vậy mà tự nhiên lớn dần lên theo những hẹn hò sau giờ lên lớp, sau những giờ đổ mồ hôi trên thao trường, sau những chiều cùng nhau đi dọc bờ sông Hàm Luông, nghe sông hát, nghe gió reo khúc nhạc vui. Một chiều bên bến sông, ông tôi ngỏ lời và được sự đồng ý của Hoài Hương.
Nhưng hai người trẻ tuổi ấy chưa lường trước được những khó khăn đang chờ đợi họ. Chính ủy và chỉ huy của đơn vị khi biết chuyện tình yêu của ông tôi và Hoài Hương đã có lời khuyên can nên thôi. Hồi đó vấn đề lí lịch ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp của người lính sau này. Yêu đương còn phải báo cáo với tổ chức. Từ ngày rời mái trường cấp ba, bước vào cuộc đời chiến trận, ông tôi chưa có một ngày bình yên để có cho riêng mình một tình yêu, một cuộc đời riêng. Cuộc đời ông cũng như cuộc đời bao người lính khi đó là cuộc đời chung của cả dân tộc, là tình yêu nước lớn lao mà sẵn sàng hi sinh máu xương vì mỗi tấc đất quê hương. Hoài Hương là tình yêu đầu đời của ông. Tình yêu ấy trong sáng vô ngần và mãnh liệt tha thiết.
Một dịp được nghỉ phép ngắn ngày, ông tôi cùng Hoài Hương lên Sài Gòn hỏi thăm tình hình anh trai của Hoài Hương đang trong trại cải tạo. Người chỉ huy đơn vị pháo binh cũ của ông tôi hiện đang làm trong Ban quân quản Sài Gòn. Ông tôi vừa vào thăm thủ trưởng cũng xin nhờ thủ trưởng quan tâm giúp cho trường hợp anh trai của Hoài Hương. Ông xin được giấy giới thiệu để Hoài Hương vào trại thăm nuôi cho anh trai. Tin vui với Hoài Hương khi anh trai bảo do học tập cải tạo phê bình tốt nên có thể chỉ vài tháng nữa anh sẽ được ra trại. Sau khi rời trại cải tạo về, Hoài Hương vui vẻ nói cười. Cả hai dạo chơi khắp phố phường Sài Gòn. Hoài Hương kéo ông tôi vào một tiệm chụp ảnh. Bức hình đen trắng ghi lại hai mái đầu tuổi trẻ chụm vào nhau với nụ cười tươi của cô giáo và nét mặt có phần cứng nhắc của anh bộ đội. Bức ảnh này về sau là một bức ảnh ông tôi trân quý nhất trong cả cuộc đời.
Qua năm 1976 anh trai của Hoài Hương được trở về nhà. Cái tết năm đầu tiên sau ngày thống nhất thật vui và tràn đầy ý nghĩa. Thị xã Bến Tre như bừng lên một sức sống mới, để vui cùng cuộc đời mới, cờ và hoa giăng khắp lối. Hoài Hương mặc một chiếc áo dài thướt tha tới chúc tết đơn vị. Rồi ông chở Hoài Hương trên chiếc xe đạp dạo chơi tới nhà các bạn quanh thị xã. Ngồi sau yên xa, Hoài Hương tựa mái đầu vào bờ lưng vững chắc, vòng tay ôm nhẹ, miệng hát một bài hát gì đó không rõ lời.
Cuộc sống của gia đình Hoài Hương sau ngày anh trai trở về không còn dễ dàng nữa. Cửa hàng đóng cửa, gia đình chưa có việc gì làm để có nguồn thu nhập ngoài khoản tiết kiệm và đồng lương giáo viên ít ỏi của cô. Sau đợt đổi tiền cuối tháng 9 năm 1975, tiền tiết kiệm của gia đình không còn được là bao. Những đồ đạc trong nhà cũng dần phải bán nốt. Gia đình Hoài Hương được ủy ban thị xã khuyến khích đi làm kinh tế mới. Nhưng nhìn hàng xóm và những gia đình đã đi làm kinh tế mới thì thấy cuộc sống ở những vùng đất hoang sơ đó quá vất vả cực khổ. Nhiều gia đình không chịu được khổ, sau khi ăn hết gạo trợ cấp của nhà nước thì cả nhà lại rồng rắn kéo nhau trở lại cố hương. May cho những gia đình còn giữ lại ngôi nhà cũ, chứ có những gia đình đã bán tất cả gia sản đi để làm kinh tế mới thì khi trở về họ không có một mái nhà để nương thân. Gia đình Hoài Hương đã tính tới chuyện vượt biên. Thế nhưng rủi ro trên biển cả mênh mông với gió to sóng dữ và cả cướp biển là điều có thể phải đánh đổi bằng cả mạng sống. Rồi cả khi vượt biên thành công thì lại phải đối mặt với cuộc sống thiếu thốn bệnh tật trong các trại tị nạn. Miền đất hứa đâu dễ tìm tới. Thế nên điều này chỉ mới bàn bạc trong gia đình mà chưa quyết định. Cả nhà vẫn đang cầm cự được và hi vọng tình hình kinh tế sẽ cởi mở hơn để được lại tự do buôn bán.
Sang năm 1977, ông nội tôi nhận được quyết định trở lại miền Bắc để theo học hệ trung cấp của Trường Đại học Kinh tế kế hoạch (nay là Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội). Được trở về miền Bắc sau gần mười năm chiến đấu và tiếp quản miền Nam, là mong mỏi của ông nội tôi. Nhưng ông có một nỗi niềm đau đáu là làm sao có thể rời đi khi ở đây có Hoài Hương, tình yêu đầu đời ngày một sâu nặng của ông. Hoài Hương không thể bỏ lại bố mẹ già để theo ông tôi ra miền Bắc được. Đứng trước thế tiến thoái lưỡng nan đó đôi trẻ không biết phải làm sao. Cuối cùng ông hẹn sau hai năm học ông sẽ trở lại. Lời hẹn ước hai năm của đôi trẻ nghe sao như lời hẹn ước tha thiết của đất nước sẽ thống nhất sau Hiệp định Geneve, để rồi sau đó là hơn hai mươi năm với bao máu và nước mắt, non sông Việt Nam mới liền một dải.
Ông tôi trở về thăm quê hơn một tuần rồi ra thủ đô bắt đầu những ngày tháng sinh viên. Những lá thư giữa hai miền Bắc Nam mang theo nỗi nhớ và tình yêu trao gửi của ông và Hoài Hương. Cuộc sống sau ngày giải phóng ngày một thêm vất vả. Xung đột biên giới ở Tây Nam ngày càng căng thẳng và đẫm máu. Xung đột biên giới với Trung Quốc cũng gia tăng. Quân đội được động viên sẵn sàng chiến đấu. Rất có thể Tổ quốc với đầy vết thương chưa liền da non lại phải căng mình cho một cuộc chiến mới. Cuối năm 1977, ông nội tôi có giấy điều động của quân đội, tạm gác việc học, quay trở lại chiến trường Tây Nam phục vụ công tác chuẩn bị chiến đấu cho đơn vị pháo binh trực thuộc Quân khu 9. Trên đường trở lại chiến trường, ông xin phép đơn vị nghỉ phép ba ngày để về lại Bến Tre thăm Hoài Hương và gia đình. Đi đi về về đã mất gần hai ngày đường nên chỉ còn một ngày cho đôi trẻ gặp nhau. Ngày gặp lại, cảm xúc như vỡ òa. Hoài Hương gục đầu vào vai ông mà khóc nức nở. Dù vui ngày gặp lại nhưng ông tôi vẫn thấy buồn vì gia cảnh của Hoài Hương đã trở nên khó khăn hơn mà ông không thể giúp được gì. Bố mẹ già không thể lao động chân tay. Anh trai sau khi đi cải tạo về vẫn chưa tìm được công việc. Đồng lương giáo viên của Hoài Hương không đủ trang trải cuộc sống.
Tháng 4 năm 1977 Khmer Đỏ tràn sang các xã biên giới chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và sát hại dân thường. Tháng 9 cùng năm, 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở tỉnh Tây Ninh và An Giang. Các tỉnh biên giới Tây Nam được đặt trong trạng thái chiến tranh. Cuối năm 1977, trong một trận đánh khốc liệt đẩy lui quân Pôn Pốt, đơn vị của ông nội tôi đã đánh vào tận bến đò Neak Luong sâu trong đất Campuchia. Tuy nhiên cũng trong trận chiến này, khi đơn vị hoàn thành nhiệm vụ và rút quân về nước thì bất ngờ bị địch phục kích, ông tôi bị thương nặng. Khi đưa về trạm quân y thì ông đã mất nhiều máu và tưởng chừng không qua khỏi. Kíp phẫu thuật gắp ra hai đầu đạn đâm xuyên qua phổi găm sát gần tim. Ông cao số nên còn giữ được mạng. Hai viên đạn này sau đó ông được bác sĩ đưa lại giữ làm kỉ niệm. Ông tôi được chuyển về Quân y viện 195 tại Sài Gòn và nằm điều trị ở đó gần nửa năm mới dần hồi phục.
Sau khi ra viện, ông trở lại Bến Tre. Nhưng khi tìm tới nơi thì gia đình Hoài Hương đã không còn ở đấy nữa. Hỏi người hàng xóm kế bên thì được biết họ đã vượt biên ra đi được gần một tháng. Người hàng xóm đưa cho ông tôi một bức thư Hoài Hương gửi lại. “Anh thương nhớ! Khi anh nhận được bức thư này thì có lẽ em đã ở một phương trời rất xa. Em gửi lại quê nhà tình yêu với ngàn nỗi nhớ. Em thương anh và thương cả tình yêu của chúng mình nữa. Anh còn học hành, còn sự nghiệp dài lâu. Em tin anh của em sẽ làm nên một sự nghiệp rạng rỡ. Em chỉ là một cô giáo, một người con với chữ hiếu làm đầu. Em có thể chờ, bao lâu em cũng có thể chờ, nhưng gia đình em không thể chờ. Cuộc sống khó khăn nên gia đình em đã quyết tâm ra đi. Hãy cầu chúc cho em và gia đình anh nhé! Nếu sau này có cơ hội gặp lại, em mong sẽ nhìn thấy anh của em chững chạc và thành công hơn. Ngàn lần thương nhớ anh, chú bộ đội Bắc kỳ của em… ”
Đêm nằm với ông nghe ông kể chuyện, tôi có hỏi ông: “Sau đó ông có gặp lại cô ấy không?” Đưa ánh mắt nhìn xa xăm, ông bảo: “Ông bặt vô âm tín với Hoài Hương từ dạo đó. Ông có tới Bộ chỉ huy biên phòng của tỉnh để hỏi về những chuyến vượt biên gần đây. Người chỉ huy ở đó bảo rằng dòng người vượt biên ngày một gia tăng, nhiều chuyến bị bắt giữ, nhiều chuyến trốn thoát, nhưng một số chuyến vượt biên đã không tới được điểm đến mong đợi mà nằm lại giữa lòng biển khơi nơi sóng to gió dữ. Ông cầu mong bình an cho Hoài Hương và gia đình.”
Tôi khép lại cuốn nhật kí, nhìn lại bức ảnh cũ ông và Hoài Hương. Một người con gái thật đẹp, một mối tình thật đẹp. Tôi nhìn hai viên đạn, tôi đặt mối tình ấy trong những năm đầu giải phóng. Dường như tôi thấy được những giằng xé trong cuộc tình mà ở đó là bao cách trở, của bên thắng và bên thua, của khó khăn sau ngày giải phóng, là lựa chọn của tình yêu và sự nghiệp, là lựa chọn ra đi và ở lại, là lựa chọn chữ hiếu và chữ tình. Thật quá nhiều điều đè nặng lên mối tình của hai con người trẻ tuổi. Có lẽ cũng tại bởi chiến tranh. Chỉ còn lại mãi là tiếc nuối và bao nhớ mong. Chỉ còn lại những dòng hồi ức này, mà tôi viết lại như lời tạ từ cho những điều ông giữ kín trong lòng tới tận cuối cuộc đời.