Diễn đàn lý luận

Trẻ em nhìn từ những khoảng trống gia đình thời chiến

Trịnh Đặng Nguyên Hương
Lý luận phê bình 17:27 | 22/10/2025
Nhìn chiến tranh từ những khoảng trống gia đình, tái hiện sự trưởng thành không dễ dàng của những đứa trẻ thời bom đạn, nhà văn cho thấy trẻ em có góc nhìn và những lựa chọn ứng xử riêng để thích nghi, thích ứng và trưởng thành trong tình thế đặc biệt của lịch sử.
aa

Tóm tắt:

Chiến tranh là một tình huống bất thường của đời sống. Việc có thể sống sót và đi qua chiến tranh không dễ dàng với mọi cá nhân. Với riêng trẻ em, việc tồn tại và thích nghi với hoàn cảnh chiến tranh là hết sức khó khăn, bởi ngay trong hoà bình, trẻ em khó có thể tồn tại bình thường nếu không có sự nuôi dưỡng, chăm sóc và tình yêu từ người lớn. Câu hỏi đặt ra với nghiên cứu này là: vẻ đẹp của trẻ em khi cha mẹ vắng mặt trong gia đình thời chiến là gì?Trẻ em có thể sống, giữ gìn được tâm hồn tươi mát và có thể trưởng thành trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh hay không? Bằng cách nào, trẻ em có thể đối diện với những khoảng trống bất thường trong gia đình khi thiếu cha, vắng mẹ hoặc thiếu vắng cả cha và mẹ mà vẫn có thể tồn tại, nuôi dưỡng niềm tin vào tương lai, học hỏi để trưởng thành trong tình thế khắc nghiệt chung của quốc gia và dân tộc. Thông qua việc khảo sát một số tác phẩm cụ thể viết về trẻ em trong những gia đình thiếu cha, vắng mẹ do hoàn cảnh chiến tranh gồm Mẹ vắng nhà (Nguyễn Thi), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng), Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), sử dụng lí thuyết diễn ngôn, phương pháp so sánh và liên ngành, bài viết chỉ ra: tái hiện chiến tranh từ góc nhìn trẻ thơ là một đóng góp của văn học thiếu nhi. Nhìn chiến tranh từ những khoảng trống gia đình, tái hiện sự trưởng thành không dễ dàng của những đứa trẻ thời bom đạn, nhà văn cho thấy trẻ em có góc nhìn và những lựa chọn ứng xử riêng để thích nghi, thích ứng và trưởng thành trong tình thế đặc biệt của lịch sử.

Trẻ em nhìn từ những khoảng trống gia đình thời chiến

1. Đặt vấn đề

Catherine Russell – Giám đốc điều hành của UNICEF đã phát biểu rằng: “Trẻ em không gây nên chiến tranh, và chúng cũng không thể chấm dứt chiến tranh, nhưng chúng luôn phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhất” (Russell 2024). Phát biểu này không phải là một nhận xét thông thường và mang tính giáo điều, mà được rút ra sau chuyến thăm hai ngày của bà Russell vào tháng 4/2024 tại khu vực Trung Đông, nơi bà tận mắt chứng kiến những ảnh hưởng khủng khiếp và nghiêm trọng của chiến tranh lên đời sống của trẻ em. Cùng với phát biểu của bà Russell, những bức ảnh “biết nói” liên quan đến các cuộc xung đột vũ trang mà các phóng viên chiến trường cung cấp đã cho thấy chiến tranh không chỉ tác động đến người lớn mà còn là một thử thách khắc nghiệt với trẻ em, những cá nhân nhỏ bé và vô tội bị đẩy vào hoàn cảnh thiếu thốn, mất mát, bị tổn thương nặng nề cả về thể chất lẫn tinh thần (Trung Hiếu 2017, Hoài Linh 2022, Thái An 2023). Hiện nay, cuộc sống của trẻ em trên khắp thế giới vẫn bị đe doạ, bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp bởi chiến tranh và xung đột vũ trang giữa các cường quốc, bởi nguy cơ về Thế chiến thứ III. Số phận mong manh và cuộc sống đầy bất trắc của trẻ em trong chiến tranh, vì vậy, đã thu hút sự chú ý của nhiều cây bút và trở thành đề tài của nhiều tác phẩm văn chương. Trong số đó, có thể kể đến cuốn nhật ký bi thảm về Thế chiến thứ hai của Anne Frank mang tên The Diary of a Young Girl (1947), Night (1956) của Elie Wiesel, When Hitler Stole Pink Rabbit (1971) và The Other Way Around (1975) của Judith Kerr, Mischling, Second Degree (1977) của Ilse Koehn, In Country (1985) của Bobbie Ann Mason, Number the Stars (1989) của Lois Lowry, hay The Wall (1990) của Eve Bunting. Xét riêng tại Việt Nam, những tác phẩm văn chương đặc sắc viết cho thiếu nhi ở nửa sau thế kỉ XX như Kim Đồng của Tô Hoài (1920-2014), Quê nội của Võ Quảng (1920-2007), Đội thiếu niên du kích Đình Bảng của Xuân Sách (1932-2008), và Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán (1932-1995), cùng với những tác phẩm khác, đã phần nào cho thấy những gian khổ, thiếu thốn, mất mát, và đau thương mà những đứa trẻ thời chiến phải đối mặt và chấp nhận như một tất yếu của hoàn cảnh.

Khi tìm hiểu về hình tượng trẻ em trong các tác phẩm văn học viết về chiến tranh, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh đóng góp của các tác phẩm này trong việc lên án chiến tranh, thể hiện khát vọng hòa bình. Chẳng hạn, Kathleen Dale Colarusso lưu ý rằng những tác phẩm văn học thiếu nhi viết về chiến tranh “có thể khiến các cá nhân, cả già lẫn trẻ, nhận ra rằng mọi người đều góp phần gây nên và giải quyết các vấn đề thông qua việc họ hành động và không hành động” (1986: 12). Jennifer Armstrong khẳng định rằng: “Văn học chiến tranh mang đến cho độc giả trẻ cơ hội suy nghĩ về việc thế nào là công bằng và không công bằng để phát triển khả năng hoài nghi và truy vấn một cách triết học. Nó cho họ cơ hội để suy nghĩ về biện pháp khác nhằm đạt được hòa bình” (2002: 29). Những nhận định tương tự cũng có thể được tìm thấy trong các nghiên cứu của học giới Việt Nam về văn học thiếu nhi viết về đề tài chiến tranh. Bên cạnh đó, một xu hướng phổ biến khác trong các nghiên cứu này là sự khẳng định và nhấn mạnh truyền thống đấu tranh anh dũng, kiên cường của nhân dân Việt Nam qua việc phân tích và ngợi ca những phẩm chất tuyệt vời và những chiến công phi thường của những người anh hùng nhỏ tuổi (Vân Thanh 1982, Vân Thanh 1999a, Vân Thanh 1999b, Vân Thanh 2019, Hạ Yến 2020, Hạnh Nguyên 2023). Sự khẳng định và nhấn mạnh ấy là điều hợp lý, bởi nhiều tác phẩm văn học thiếu nhi Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 đều chú trọng xây dựng hình tượng những chiến sĩ nhỏ, những thiếu nhi anh hùng vượt lên trên đau thương và nghịch cảnh để đóng góp một cách thiết thực vào cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ và thống nhất đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đi sâu, phân tích hình tượng trẻ em trong hoàn cảnh gia đình thiếu cha, vắng mẹ hoặc thiếu vắng cả cha mẹ do chiến tranh, ảnh hưởng của những khoảng trống do sự thiếu vắng cha mẹ lên cuộc sống của trẻ em và cách trẻ em đối mặt với tình cảnh ấy. Đặc biệt, cũng chưa có nghiên cứu nào đề cập tới khả năng sáng tạo kì diệu của trẻ em khi đối diện với sức mạnh huỷ diệt của chiến tranh để có thể bào toàn thế giới giàu có, đẹp đẽ của tâm hồn. Vì vậy, bài viết này, hi vọng góp thêm một cái nhìn để bổ khuyết cho khoảng trống trong nghiên cứu đó.

với hầu hết trẻ em, tuổi thơ diễn ra trong gia đình, và gia đình hiện diện khắp nơi trong văn học trẻ em

Bài viết sử dụng điểm tựa là nghiên cứu của Kimberly Reynolds khi bà cho rẳng “với hầu hết trẻ em, tuổi thơ diễn ra trong gia đình, và gia đình hiện diện khắp nơi trong văn học trẻ em”; “phần lớn sách dành cho trẻ em đề cập đến gia đình và cuộc sống gia đình của các nhân vật ở một mức độ nào đó” (2024: 133-134). Nói cách khác, có một mối liên hệ mật thiết giữa trẻ em và gia đình, trong đó gia đình là một khía cạnh quan trọng của văn học thiếu nhi. Trẻ em vốn là một đối tượng đặc biệt, khó có thể tồn tại nếu không có gia đình hoặc thiếu sự nuôi dưỡng, chăm sóc từ người lớn. Hoàn cảnh chiến tranh khiến việc sinh tồn cũng như trưởng thành của trẻ em càng trở nên khó khăn hơn vì các em phải đối mặt với việc mất người thân, mất gia đình, cái đói, cái chết, cùng nhiều nguy cơ khác. Trong số đó, mất người thân là một trong những vấn đề tác động mạnh và trực tiếp nhất đến cuộc sống của trẻ em, điều đó có thể làm thay đổi hiện tại đồng thời “bẻ lái” tương lai trẻ em theo những lối rẽ bất ngờ. Chính vì vậy, bên cạnh việc khám phá những nhân vật trẻ em anh hùng, độc lập, tự chủ, cần tìm hiểu trẻ em trong những gia đình thiếu vắng cha, mẹ hoặc không có cả cha và mẹ trong thời chiến để có cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về đối tượng này[1].

Trẻ em nhìn từ những khoảng trống gia đình thời chiến
Cảnh trong phim Mẹ vắng nhà, đạo diễn bởi NSND Nguyễn Khánh Dư.

Để làm rõ hơn vấn đề của trẻ em trong những khoảng trống gia đình thời chiến, bài viết lựa chọn ba tác phẩm Đất rừng phương Nam (1957) của Đoàn Giỏi (1925-89), Mẹ vắng nhà (1966) của Nguyễn Thi (1928-68), và Chiếc lược ngà (1968) của Nguyễn Quang Sáng (1932-2014) để khảo sát. Đây là ba tác phẩm tiêu biểu cho việc tái hiện hình tượng trẻ em lớn lên, trưởng thành trong chiến tranh khi gia đình thiếu vắng người cha (Chiếc lược ngà), người mẹ (Mẹ vắng nhà), hoặc trẻ em chỉ có một mình vì lạc mất cả cha và mẹ trong khi chạy giặc (Đất rừng phương Nam). Ba tác phẩm dù khác nhau về thể loại, Chiếc lược ngàMẹ vắng nhà là truyện ngắn, Đất rừng phương Nam là tiểu thuyết nhưng “bình đẳng” trong vai trò tái hiện chiến tranh đã tác động trực tiếp tới cuộc sống hàng ngày của trẻ em ra sao. Nếu nhân vật chính của Đất rừng phương Nam là một nam thiếu nhi lạc mất cả cha và mẹ trong kháng chiến chống Pháp; Chiếc lược ngà tái hiện hình tượng một bé gái cha đi bộ đội rồi hi sinh cũng trong kháng chiến chống Pháp; thì nhân vật chính của Mẹ vắng nhà là một bé gái, hàng ngày quán xuyến toàn bộ việc nhà cho mẹ đi đánh giặc trong kháng chiến chống Mỹ. Như vậy, ba tác phẩm khi đặt cạnh nhau đã góp phần mở rộng chiều kích để quan sát tác động của chiến tranh lên đời sống của trẻ em trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc[2]. Chiến tranh đã tác động sâu sắc lên cuộc sống của những đứa trẻ trong ba tác phẩm nói trên, các nhân vật thiếu nhi dù là gái hay trai đều phải đối diện với hoàn cảnh của một gia đình không toàn vẹn, phải tìm cách thích ứng và vượt qua để tồn tại và trưởng thành. Một điều đáng chú ý ở ba tác phẩm nói trên là, các nhà văn không lí tưởng hoá nhân vật theo khuôn mẫu của những em bé anh hùng như phần lớn các tác phẩm viết về trẻ em thời chiến thường xây dựng. Không nhấn mạnh khía cạnh anh hùng ở trẻ em, ba tự sự Đất rừng phương Nam, Chiếc lược ngà, Mẹ vắng nhà nhìn trẻ em là trẻ em, trẻ em trong sự hồn nhiên, ngây thơ, trong những trò chơi hàng ngày, trong nỗi sợ. Hay nói cách khác, ba tác giả đã xây dựng hình tượng nhân vật trẻ em trong sự vận động của các tình huống đời sống mà ở đó bom đạn, mất mát đã làm xáo trộn nhịp sống bình thường của trẻ thơ. Cái nhìn này góp phần mở rộng những hiểu biết về trẻ em thời chiến và có thể chính sự độc đáo của góc nhìn đã tạo nên sức sống vượt thời gian và giá trị không thể phủ nhận của ba tác phẩm nói trên[3].

2. Sự vắng mặt của cha mẹ trong gia đình - tình thế bất thường với trẻ em trong chiến tranh

Khi nghiên cứu về những tác phẩm văn học thiếu nhi có chủ đề gia đình, Kimberly Reynolds nhận định rằng xuất phát điểm của những câu chuyện đó thường là “một gia đình hạt nhân đầy đủ, tràn ngập yêu thương với hai bậc cha mẹ và một cuộc sống hạnh phúc, dễ chịu” (2024: 134), rồi một biến cố nào đó xảy ra khiến cuộc sống hạnh phúc đó bị đứt đoạn (như sự vắng mặt hay cái chết của cha hoặc mẹ, hoặc khủng hoảng tài chính hay nhu cầu chuyển nhà tới một nơi xa), khiến gia đình hạt nhân ban đầu bị phá vỡ và xáo trộn, và câu chuyện được kể lại sau khi biến cố đã xảy ra, những đứa trẻ đã thay đổi, từ đó, nêu lên những thông điệp về trẻ em hoặc về gia đình. Nghiên cứu của K. Reynolds đã cho thấy sự vắng mặt của cha hoặc mẹ là một trong những biến cố lớn, gây ra những xáo trộn dữ dội trong gia đình và ảnh hưởng trực tiếp tới trẻ em. Những nhận định của K. Reynolds cũng có thể được áp dụng vào việc nghiên cứu những tác phẩm viết về trẻ em Việt Nam trong chiến tranh, nơi mà phần lớn trẻ em đều phải đối mặt với cấu trúc gia đình không đầy đủ như thể đó là một tất yếu của lịch sử và thứ đi cùng với cấu trúc không đầy đủ ấy chính là sự thiếu vắng những điểm tựa vững vàng cho sự tồn tại và phát triển của những đứa trẻ. Hoàn cảnh bất thường đó là một thách thức lớn với trẻ em, và văn học – loại hình nghệ thuật vốn có khả năng biểu đạt sống động và cụ thể những tình thế tồn tại của con người – đã góp phần phản ánh cuộc sống của trẻ em cũng như cách chúng đối diện, thích nghi, và vượt qua những thách thức nghiệt ngã ấy.

Trẻ em nhìn từ những khoảng trống gia đình thời chiến
Mẹ và con. Tranh của Mai Trung Thứ.

Kỳ thực, hình ảnh những gia đình thiếu vắng người cha do chiến tranh đã xuất hiện trong văn học Việt Nam từ rất sớm. Trong bài ca dao nổi tiếng “Cái cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non/ Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trảy nước non Cao Bằng” thấp thoáng hình ảnh cuộc binh biến ở thế kỉ XVI, mà ở đó, người chồng chia tay vợ con để tham gia đội quân ở Cao Bằng. Người vợ qua ẩn dụ “cái cò” phải trở về quán xuyến gia đình, phụng dưỡng cha mẹ già và nuôi dạy con thơ. Một tác phẩm dân gian khác là truyện Tô Thị cũng nói về sự tan vỡ của gia đình vì chiến tranh. Người chồng đi mãi không về, người vợ bồng con lên núi chờ chồng và hoá đá. Hình ảnh nàng Tô Thị ngóng chồng sau này đã được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (1943-) nhắc đến trong trường ca Mặt đường khát vọng (công bố lần đầu tiên vào năm 1974) như một cách khẳng định “sự đóng góp” của những người phụ nữ trong chiến tranh: “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu” (2020: 120). Tuy nhiên, “sự đóng góp” ấy cũng đồng thời nhắc hậu thế về những tác động tiêu cực của chiến tranh tới sự ổn định và bền vững của cấu trúc gia đình. Văn học Việt Nam thời trung đại cũng có một số tác phẩm đề cập đến hệ quả của chiến tranh tới phụ nữ và trẻ em. Một ví dụ tiêu biểu là truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” trong tập Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỷ XVI). Người chồng đi lính khi đứa con chưa chào đời. Để trả lời câu hỏi của con về cha, người mẹ chỉ cái bóng mình trên vách và nói đó là cha nó. Chuyện đùa này là nguồn cơn dẫn đến những hiểu lầm nguy hại về sau (Nguyễn Dữ 2013: 219). Các tác phẩm văn học dân gian và văn học bác học trên đây đều cho thấy khi người đàn ông vốn là trụ cột của gia đình vắng mặt, đời sống thường nhật của mỗi gia đình đều xáo trộn, sự vắng mặt này không chỉ ảnh hưởng tới người vợ mà còn ảnh hưởng tới những đứa trẻ. Trẻ em, trong những gia đình vắng cha giờ đây phụ thuộc hoàn toàn vào người mẹ, các em phải học cách chấp nhận thực tế đó và phải xoay sở để thích nghi với khoảng trống cả về mặt vật chất lẫn tinh thần trong gia đình mình. Đó là mặt trái của chiến tranh mà các tác phẩm văn chương đã góp phần phản ánh qua sự đổ vỡ của những hình mẫu gia đình truyền thống.

Ra đời trong những năm năm mươi, sáu mươi của thế kỉ XX, khi cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ ở Việt Nam đang diễn biến phức tạp và căng thẳng, ba tác phẩm Chiếc lược ngà, Đất rừng phương Nam, và Mẹ vắng nhà mở ra hình ảnh những gia đình bình thường thoắt nhiên bị phá nát, chia lìa, ly tán. Cô bé Thu (Chiếc lược ngà) xa cha từ khi em chưa đầy một tuổi. Theo lời kể của bác Ba, người bạn chiến đấu với ba của bé Thu, “Chúng tôi cùng thoát ly đi kháng chiến, đầu năm 1946, sau khi tỉnh nhà bị chiếm. Lúc đi, đứa con gái đầu lòng của anh – và cũng là đứa con duy nhất của anh chưa đầy một tuổi” (Nguyễn Sáng 1968: 41). Dòng hồi ức của bác Ba đưa người đọc ngược dòng thời gian trở về những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Chiến tranh nổ ra, mang theo anh Sáu (cha của bé Thu) ra trận. Khi ấy, Thu còn quá nhỏ để có thể nhớ được gương mặt cha hay lưu giữ bất cứ kí ức nào về cha mình. Cha Thu cũng không được gặp con nhiều năm liền mà “chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ thôi” (Nguyễn Sáng 1968: 42). Sau

Trẻ em nhìn từ những khoảng trống gia đình thời chiến
Cảnh trong phim "Đất rừng phương Nam". Ảnh: HKFilms

này, anh Sáu - ba Thu hi sinh, trước khi mất ba Thu nhờ người bạn thân mang về cho con gái chiếc lược ngà mà ba cô bé đã dành nhiều yêu thương để làm riêng cho con gái. Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thi lại cho thấy chiến tranh không chỉ “nhấc” những người đàn ông ra khỏi gia đình mà kéo nhiều người phụ nữ khỏi căn nhà và đàn con thơ. Tác phẩm Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thi ngay từ nhan đề đã khẳng định một hiện tượng đặc biệt trong thời chiến: gia đình vắng bóng người mẹ chăm lo, săn sóc cho đàn con. Sự vắng mặt của cha mẹ vốn là điều bất thường với trẻ em, song ở tác phẩm này, sự vắng mặt cha mẹ thường xuyên tới mức trở thành chuyện bình thường với lũ trẻ, và thậm chí con Bé – đứa con gái lớn nhất trong nhà - “cũng không mong mẹ về” (Nguyễn Thi 1984: 27). Nói cách khác, nhan đề tác phẩm có thể xem như một ẩn dụ về những khoảng trống lớn trong nhiều gia đình thời chiến. Nhân vật An trong Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi cũng không có cha mẹ ở bên cạnh như chị em con Bé trong Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thi nhưng tình cảnh của An hết sức khắc nghiệt. Sau trận bom dội xuống bất ngờ ở nơi tản cư, An bị lạc mất cả cha và mẹ. An đã hỏi rất nhiều người “nhưng cũng chẳng ai biết cả” (Đoàn Giỏi 2020: 104). Cho đến cuối tác phẩm, khi trở thành một người lính du kích, An vẫn không biết thêm bất cứ tin tức nào về cha mẹ mình. Câu chuyện của An cho thấy bom đạn chiến tranh đã xoá đi không thương tiếc sự tồn tại của những gia đình. Ngôi nhà của An không còn, quê hương bị tàn phá, chiến tranh khắc nghiệt còn tước đoạt của em một gia đình trọn vẹn, khiến em phải phiêu bạt khắp vùng U Minh Thượng và U Minh Hạ ở độ tuổi mà đáng lẽ ra, em xứng đáng được học hành, được có cả cha và mẹ yêu thương, chăm sóc.

Có thể thấy, những đứa trẻ trong ba tác phẩm Chiếc lược ngà, Mẹ vắng nhà, và Đất rừng phương Nam đều phải đối mặt với chiến tranh khốc liệt trong hoàn cảnh vắng cha hay thiếu mẹ. Trong số đó, cô bé Thu trong Chiếc lược ngà dường như may mắn hơn nhiều bè bạn khác bởi dù cha đi đánh giặc nhiều năm, em vẫn có mẹ yêu thương, chăm sóc. Ngược lại, đáng thương nhất chính là cậu bé An trong Đất rừng phương Nam vì em đã mất cả gia đình nơi đất khách quê người. An phải học cách sinh tồn, đối mặt với hiểm nguy ở nơi rừng thiêng nước độc cũng như đối mặt với những tên gián điệp khét tiếng gian ngoan, với cái đói và bom đạn… Mẹ vắng nhà có vẻ là tác phẩm “lạc quan” hơn cả khi năm đứa trẻ trong câu chuyện dường như không thấy buồn bã hay đau khổ vì thiếu vắng cha mẹ. Ngược lại, năm chị em biết bảo ban nhau, chăm sóc nhau để cha mẹ yên tâm gánh vác trách nhiệm với đất nước. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa rằng khoảng trống lớn trong gia đình không gây ảnh hưởng đến cuộc sống và sự phát triển của năm đứa trẻ con chị Út. Cũng như chị em con Bé trong Mẹ vắng nhà, bé Thu ở Chiếc lược ngà và An trong Đất rừng phương Nam đều phải đối diện với những trở ngại và tổn thương do thiếu vắng cha mẹ. Chiến tranh vốn là một thực tế bất thường, là thử thách khắc nghiệt với ngay cả người lớn, nhưng ở đây, các nhà văn tập trung tái dựng việc thực tế khắc nghiệt ấy tác động ra sao đối với trẻ thơ, đồng thời đặt ra câu hỏi trẻ em có thể đương đầu với chiến tranh hay không, bằng cách nào mà trẻ em có thể tồn tại và trưởng thành trong bom đạn mà thiếu cha vắng mẹ? Phản ứng với hoàn cảnh này ở trẻ em là giống hay khác nhau? Các nhà văn, thông qua những câu chuyện về trẻ em hết sức cá nhân giúp người đọc có được những hình dung cụ thể về cách thức mà trẻ em đã vượt qua tình thế khó khăn, đặc biệt này.

Trẻ em nhìn từ những khoảng trống gia đình thời chiến
An được Út Lục Lâm đồng hành, rong ruổi trên hành trình tìm cha. Cảnh tron phim Đất rừng phương Nam. Ảnh: Huyền Đỗ.

3. Quan sát và lựa chọn của trẻ em với sự vắng mặt của cha mẹ trong gia đình thời chiến

Trong cuốn sách Thế giới bí mật của trẻ em, Thérèse Gouin-Décarie cho rằng trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ mà là trẻ em và chúng “đều theo một luật thiên nhiên bất di bất dịch”, đó là “luôn luôn tập thích ứng với thế giới bên ngoài mà đồng thời vẫn giữ cá tính riêng, dần dần tự lập để thoát li được cha mẹ” (2018: 11). Nói cách khác, trong đời sống bình thường cũng như trong hoàn cảnh bất thường là chiến tranh, trẻ em vừa tập thích ứng dần với hoàn cảnh vừa giữ được cá tính của mình và những đặc trưng của độ tuổi. Vì vậy, nếu chỉ quan sát trẻ em với tư cách những nạn nhân nhỏ bé, đáng thương của chiến tranh hay tô đậm chúng như những anh hùng nhỏ tuổi có thể sẽ làm nghèo đi vẻ đẹp vốn có của trẻ em thời chiến. Ở Chiếc lược ngà, Mẹ vắng nhà, Đất rừng phương Nam, các tác giả đã xây dựng thành công những nhân vật trẻ em sống đúng với hoàn cảnh và lứa tuổi của mình. Cách mà các nhân vật phản ứng với những khoảng trống gia đình cho thấy trẻ em có góc nhìn và những lựa chọn riêng để thích nghi và trưởng thành trong tình thế đặc biệt của lịch sử.

Bé Thu (Chiếc lược ngà), lớn lên trong gia đình vắng cha và chỉ có mẹ. Ba Thu đi kháng chiến. Thu chỉ biết mặt cha qua tấm ảnh mẹ giữ gìn cẩn thận. Khi anh Sáu – cha Thu được về phép, cô bé nhất quyết không chịu nhận cha. Phản ứng dữ dội của cô bé như không gọi cha, mẹ doạ đánh em cũng nhất quyết không gọi, cha càng vỗ về, em càng đẩy ra. Đỉnh điểm của căng thẳng là chi tiết trong bữa cơm, cha gắp cho Thu miếng trứng cá nhưng con bé “lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung toé cả mâm” (Nguyễn Sáng 1968: 46). Anh Sáu – cha Thu- giận quá nên tét vào mông con, khiến nó bỏ dở bữa cơm, lập tức “sang qua nhà ngoại, mét với ngoại và khóc ở bên ấy” (Nguyễn Sáng 1968: 47). Mặc cho mẹ dỗ dành như thế nào, Thu cũng nhất định không về. Những chi tiết miêu tả sự chống đối dữ dội theo cấp số nhân của cô bé tám tuổi trong việc nhất định không chịu gọi cha ruột là ba lại “mách bảo” một sự thật khác. Em không chấp nhận người cha ruột thịt, đang có mặt trong nhà là cha em bởi lẽ trên mặt anh Sáu giờ đây có “vết thẹo dài bên má phải” rất đáng sợ (Nguyễn Sáng 1968: 43). Vết thẹo gây ra sự hiểu lầm, khiến cô bé tin rằng, người đàn ông này không phải cha em. Tình cảm bộc trực, hồn nhiên và suy nghĩ có phần giản đơn của một cô bé tám tuổi đã được nhà văn phát hiện và khắc hoạ thành công trong tác phẩm này. Đồng thời, khi khắc hoạ tình thế đặc biệt đó, tác phẩm cũng “tiết lộ” một sự thực khác: người cha vắng mặt trong gia đình là sự thực nhưng ông chưa bao giờ vắng mặt trong tâm hồn cô con gái bé bỏng. Cô bé luôn có cha trong lòng. Đó là người cha thật đẹp mà em vẫn hình dung qua bức ảnh cưới của cha và mẹ. Gìn giữ, nâng niu hình ảnh cha, tưởng tượng những điều đẹp đẽ về cha qua lời mẹ kể chính là cách thức giúp bé Thu vượt qua sự thiếu vắng người cha thực của em. Tái hiện những phản ứng gay gắt của bé Thu khi gặp cha trong tác phẩm Chiếc lược ngà, nhà văn Nguyễn Quang Sáng cho thấy việc đối diện và làm quen với khoảng trống trong gia đình không phải là chuyện đơn giản với trẻ em. Nhân vật bé Thu cũng có nét tương đồng với bé Đản (Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ) khi tìm cách vượt qua nỗi thiếu vắng cha bằng một hình ảnh thay thế người cha (bức ảnh hay cái bóng trên tường). Các em có cách nhìn và có lí do riêng để ứng xử theo cách của mình. Những gì mà người lớn cần làm là thấu hiểu, yêu thương để có thể sớm bù đắp những thiếu vắng lớn lao mà trẻ em phải đối mặt trong hoàn cảnh khắc nghiệt do chiến tranh gây nên. Vì vậy, thông điệp của tác phẩm Chiếc lược ngà khá mới mẻ so với những tác phẩm viết về chiến tranh cùng thời và góp phần tạo nên thành công chung của cả tập truyện ngắn được đánh giá là “đoá hoa đầu mùa trong vườn hoa sắp đến mùa nở rộ của văn học cách mạng miền Nam nước ta trong thời kì chống Mỹ, cứu nước” (Lời nhà xuất bản, trích dẫn trong Nguyễn Sáng 1968: 6).

Trẻ em nhìn từ những khoảng trống gia đình thời chiến
Trẻ em trèo cây. Tranh của Mai Trung Thứ.

Nếu bé Thu của Chiếc lược ngà lớn lên trong hoàn cảnh vắng cha thì cậu bé An ở Đất rừng phương Nam cùng lúc bị chiến tranh “lấy đi” cả cha và mẹ. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình trung lưu ở một thành phố nhỏ bên bờ sông Tiền. Em được đi học, được cha mẹ yêu thương, chăm sóc, cuối tuần em được ra bờ sông chơi với các chú thuỷ thủ, ngắm những con tàu ngược xuôi trên bến và nuôi những giấc mộng khám phá đại dương. Cuộc sống của một em nhỏ thành phố hiện ra êm đềm, thanh thản cho tới khi chiến tranh xuất hiện. Thành phố quê hương An bị tàn phá, gia đình em nhập vào dòng người tản cư rời thành phố trong đêm. Từ Mỹ Tho, gia đình An chạy tới Cai Lậy, Cái Bè, Đồng Tháp Mười, ở đâu em cũng thấy “Sức mạnh của bom rơi, đạn nổ, của bạo lực làm biến dạng, vỡ nát không gian từ thành phố tới làng quê, từ đô thị sầm uất tới những vùng xa xôi, hẻo lánh. Chiến tranh cũng phá huỷ không thương tiếc đời sống vật chất và tinh thần của con người” (Trịnh Đặng Nguyên Hương 2022: 65). Tai ương không dừng lại ở đó, một trận bom bất ngờ đổ xuống ngôi làng mà gia đình An tản cư khiến em lạc mất cả cha và mẹ. Chỉ trước và sau trận bom trút xuống, cuộc đời cậu bé hoàn toàn thay đổi. Trước trận bom, em có cả một gia đình, có mẹ, có cha, có người yêu thương và chăm lo cho em, em còn được là một đứa trẻ trong vòng tay cha mẹ. Nhưng sau trận bom, An mất gia đình, không còn có mẹ cha, không được ai nuôi dưỡng, bảo trợ. Từ đây, cuộc đời em lật sang một trang khác. Lựa chọn sống tiếp như thế nào trong bom đạn, trong tình cảnh lạc mất mẹ và cha không dễ dàng với một đứa trẻ còn đang ở tuổi đi học như An. Nhà văn cho thấy cậu bé đã chọn cách chấp nhận thực tại, đối mặt với hoàn cảnh bi kịch của mình, tìm đủ cách kiếm sống để có thể tồn tại và hi vọng tìm lại mẹ cha. Cuộc sống phiêu bạt khiến em nhanh chóng nhận ra rằng “Mày hãy tự lo lấy cho mày trước đã” (Đoàn Giỏi 2020: 107). An ngủ trong miếu hay chòi rẫy bỏ hoang, bẻ cây làm gậy cầm tay và tiếp tục hành trình. Không ai nghĩ An là một đứa bé không nhà. An cũng tự nhủ: “Chẳng nhẽ mỗi chốc lại đem chuyện mình ra kể lể với mọi người hay sao? Nhất là để cầu lấy một lòng thương! Không! Tôi không thể làm như vậy được” (Đoàn Giỏi 2020: 114). Những dòng suy tư này cho thấy An biết rằng em phải thích nghi với hoàn cảnh mới. Lạc mất mẹ cha là mất mát lớn lao nhưng An chấp nhận thực tại đó và cố gắng vượt qua mà không muốn chia sẻ với bất cứ ai. Chính hố thẳm của mất mát lại cho thấy nghị lực phi thường ở trẻ em. Tìm cách chấp nhận, thích nghi và vượt qua hoàn cảnh đau thương là lựa chọn của nhân vật An khi cùng lúc mất đi cả mái ấm gia đình cho em nương tựa. Trong hành trình của mình, An từng làm phụ bàn ở quán rượu của dì Tư Béo, từng suýt chết vì vợ chồng tên gián điệp Tư Mắm, sau đó, trở thành con nuôi của vợ chồng ông lão bán rắn. Từ đó, An có gia đình mới, sống cuộc đời vất vả nhưng ấm áp tình người với gia đình cha mẹ nuôi. An nhanh chóng học cách câu rắn, lấy mật ong, đối mặt với thú dữ và cháy rừng. Nỗi nhớ gia đình, quê hương không được nhà văn miêu tả trong những tháng ngày An sống cùng gia đình cha mẹ nuôi. Thay vào đó, An ngạc nhiên khám phá và học hỏi về các loại thực vật, chim, thú, về tập tính của các loài vật trong rừng U Minh. Nhà văn dành nhiều trang viết về vẻ đẹp của rừng U Minh qua đôi mắt của cậu bé mười bốn tuổi. Một lần đi rừng cùng tía nuôi, An thấy: “Chim hót líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kì nhông nằm vươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lưng luôn luôn biến đổi từ xanh hoá vàng, từ vàng hoá đỏ, từ đỏ hoá tím xanh…” (Đoàn Giỏi 2020: 155). Những trang viết về việc nhân vật An đắm chìm trong màu sắc và hương thơm của rừng già U Minh, đã miêu tả chân thực và sinh động tâm hồn trẻ em dễ rung động, làm bạn với thiên nhiên. Kết thúc tác phẩm, nhân vật An vẫn chưa tìm lại được cha mẹ của mình nhưng cậu bé đã trưởng thành hơn và chính thức gia nhập đội du kích địa phương, trực tiếp tham gia chiến đấu chống giặc để bảo vệ Tổ quốc. Với kết thúc này, nhà văn Đoàn Giỏi đã hướng tác phẩm của mình vào dòng chảy chung của những tác phẩm viết về thiếu nhi yêu nước nhưng không thể phủ nhận, thành công lớn của tác phẩm phần lớn nằm ở những trang viết về cuộc đời lưu lạc của An khi đối diện với biến cố lạc mất gia đình. Vì thế, Đất rừng phương Nam vẫn có những đóng góp riêng khi viết về chủ đề trẻ em đối diện với khoảng trống gia đình thời bom đạn.

Khi đánh giá về Đất rừng phương Nam, nhà nghiên cứu Vân Thanh có chung quan điểm với nhà văn Võ Quảng khi cho rằng: “Nhược điểm của Đất rừng phương Nam là cái buồn. Cái buồn ở đây xa xôi, đọc xong vẫn còn vang vọng (…) viết cho thiếu nhi không cần đánh thức cái buồn kiểu đó” (1982: 70). Đánh giá này cho thấy có một yêu cầu được đặt ra với văn học thiếu nhi, đó là đưa độc giả nhỏ tuổi tránh xa khỏi nỗi buồn. Có điều, yêu cầu đó xuất phát từ góc nhìn của người lớn, trong khi nó không hoàn toàn đúng với cách phản ứng và đặc điểm tâm lý của trẻ em. Đất rừng phương Nam có nỗi buồn của mất mát, ly tán, có những nỗi niềm giấu kín nhưng cũng không vì thế mà mất đi những quan sát và háo hức trẻ thơ trước những vùng đất mới, cảnh vật lạ và chứng kiến những con người hào sảng. Nhà văn Đoàn Giỏi đã phát hiện ra năng lực thích ứng đặc biệt nhạy bén ở trẻ em khi bị đặt vào tình thế nguy khốn. Hoàn cảnh bất thường với mất mát lớn lao, một mặt lấy của nhân vật An cả gia đình nhưng mặt khác, lại cho em cơ hội để học hỏi, trưởng thành và rèn luyện bản lĩnh cũng như khả năng thích ứng đặc biệt với chiến tranh. Vì thế, kết thúc tác phẩm, An được nhận vào đội du kích địa phương, chính thức trở thành một chiến sĩ du kích nhỏ tuổi, trực tiếp tham gia đánh giặc. Nhà văn Đoàn Giỏi không bi kịch hoá câu chuyện của An, ông cũng từ chối việc anh hùng hoá cậu bé này mà cho thấy cách thức một đứa trẻ đối diện với khoảng trống gia đình do chiến tranh gây ra. Với cách kể chuyện giản dị, chân thực về một cuộc sống có cả gian khổ, đau thương lẫn những niềm vui đơn sơ, mộc mạc, Đoàn Giỏi đã thể hiện một góc nhìn mới về nhân vật trẻ em trong chiến tranh. Trẻ em vẫn là trẻ em, khi bị đẩy vào những hoàn cảnh bi kịch, bất ngờ, trẻ em một mặt sẽ tập thích nghi với thế giới bên ngoài, mặt khác vẫn giữ cá tính riêng, dần dần hướng tới tự lập như nhấn mạnh của T. Gouin-Décarie trong cuốn Thế giới bí mật của trẻ em (2018).

Tác phẩm Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thi lại cho thấy một cách phản ứng khác của những đứa trẻ thời chiến để thích nghi với việc vắng cha mẹ, đặc biệt là vắng mẹ trong gia đình. Câu thành ngữ Việt Nam “mong như mong mẹ về chợ” đã chỉ ra một sự thật là khi mẹ vắng nhà, đứa trẻ nào cũng mong mẹ nhanh chóng quay trở về để được yêu thương, được nũng nịu, được chở che. Những nghiên cứu tâm lý học hiện đại cũng khẳng định rằng một trong những nhu cầu quan trọng nhất của trẻ em là được an toàn và được âu yếm. Trẻ em cần cảm nhận được sự an toàn và được yêu thương mới có thể mạnh khoẻ và phát triển cả về thể chất và tâm hồn (Gerhardt 2014, Aleksiejuk 2015, Grimmer 2021, Oliver 2024). Thậm chí nhà thần kinh học Ferensci còn nhấn mạnh rằng: “Trẻ không được yêu thì chết” (Dẫn theo Gouin-Décarie 2018: 63) hay Charles Whitfield cho rằng: “Đứa trẻ chỉ cảm thấy được che chở và an toàn khi nhận được sự quan tâm, chú ý” (2023: 51). Trong hoàn cảnh chiến tranh, việc mất đi người thân hoặc sự vắng mặt của cha mẹ khiến những điều kiện quan trọng nhất này lại trở thành thứ mà trẻ em khó có được nhất và dễ khiến chúng tổn thương và gặp khó khăn trong quá trình trưởng thành. Tuy nhiên, trong tác phẩm Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thi, trí tưởng tượng đã giúp năm đứa trẻ vượt qua khoảng trống lớn của một gia đình mà cả mẹ và cha đều thường xuyên vắng mặt.

Nhân vật con Bé là chị cả, dưới nó còn bốn đứa em nhỏ gồm hai gái, hai trai. Ba mẹ con Bé đi đánh giặc, thường xuyên không có mặt ở nhà. Là chị lớn trong nhà nên con Bé được giao nhiệm vụ trông em, lo cho các em ăn ngủ, phân xử khi các em tranh giành, đảm bảo an toàn cho đàn em khi bom nổ. Dưới con bé là cả đàn em nhỏ, nên ngoài những việc quan trọng nêu trên, con Bé còn có một việc quan trọng không kém đó là bày trò cho các em cùng chơi. Dưới bóng mát của cây dừa trước nhà, tác giả tái hiện hai trò chơi mà bọn trẻ hay chơi nhất trong ngày: trò chơi dạy học và tưởng tượng cảnh mẹ đang đánh giặc. Trong trò chơi lớp học, con bé đóng vai cô giáo, đàn em là học trò, thoắt cái ngôi nhà biến thành lớp học dù chưa có đứa trẻ nào biết chữ. Nhưng trò chơi bọn trẻ hay chơi nhất là tưởng tượng ra cảnh mẹ đang đánh giặc. Trong trò chơi này, con Bé luôn là thủ lĩnh, bởi chỉ có nó mới có thể leo lên ngọn dừa và tường thuật cho đám em đứng “hóng tin” dưới gốc dừa mẹ chúng đang làm gì, đang đánh giặc ở đâu.

Những câu văn kể về việc con Bé trèo lên ngọn dừa khi mẹ vắng nhà lặp đi lặp lại trong tác phẩm: “Con bé lại leo lên ngọn dừa”; “từ sáng đến giờ nó đã leo lên đó mấy lần”; “Nó leo lên ngọn dừa như thường ngày nó vẫn leo” (Nguyễn Thi 1984: 22, 24, 27). Cũng như việc vắng nhà của mẹ đã trở thành bình thường, chuyện con Bé leo lên cây dừa ngóng mẹ là một hành động thường ngày. Từ trên ngọn cây dừa, Bé có thể “nhìn thấy cả những nơi ba má đang đánh giặc” (Nguyễn Thi 1984: 28). Trí tưởng tượng kì diệu cùng với tình yêu thương dành cho mẹ đã khiến Bé nhận ra mẹ nó “có mặt” ở khắp mọi nơi: Mẹ có thể “hiện ra” qua một đám mây, một làn khói, một bóng xuồng vụt qua, và “trò chơi nhìn mẹ dỗ em của con Bé cũng sinh ra từ đó” (Nguyễn Thi 1984: 37). Con Bé và các em của nó thường thấy mẹ hiện về trong lòng chúng rất nhanh và đứa nào cũng nhận mẹ là của riêng mình như khi chúng tranh nhau bầu trời Tam Ngãi, con sông Hậu. Vì vậy, mẹ chúng xa nhà để đi đánh giặc nhưng không bao giờ những đứa trẻ cảm thấy thiếu vắng mẹ. Người mẹ ở trong tất cả những gì quen thuộc, gần gũi hàng ngày bên các con. Đứa nào cũng nghĩ về mẹ và cố gắng giống mẹ: con Anh nói mình có cái mũi con mèo giống mẹ; con Thanh nói mình có đôi mắt to giống mẹ; thằng Hiển nói mái tóc vàng hoe và cứng còng của nó giống tóc mẹ hồi mẹ còn đi ở đợ; còn con Bé thấy từng cử chỉ, hành động, ánh mắt của nó giống hệt mẹ mỗi khi mẹ trở về. Cuối cùng, khi bốt Bà Mi bị san bằng, mẹ chúng thực sự trở về và lũ trẻ hạnh phúc chạy theo mẹ “như lũ gà con” (Nguyễn Thi 1984: 41). Lần này là mẹ thật, chứ không phải người mẹ qua hình dung, tưởng tượng, qua trò chơi hàng ngày của bọn trẻ nữa.

Trẻ em nhìn từ những khoảng trống gia đình thời chiến
Cảnh trong phim Mẹ vắng nhà.

Mẹ vắng nhà được kể từ điểm nhìn của trẻ em nên thế giới trong tác phẩm này hiện ra sinh động, hấp dẫn, đầy ắp tưởng tượng và mơ mộng. Dù mẹ vắng nhà nhưng tiếng cười của lũ trẻ vẫn rộn vang khắp trong nhà, ngoài cửa. Không đứa nào thấy mẹ vắng nhà vì mẹ hiện diện trong từng câu chuyện, trò chơi cho tới từng đám mây ngang nhà. Mẹ cũng hiện diện trong tâm thức của mỗi đứa trẻ, thể hiện qua việc đứa nào cũng muốn giống mẹ và thấy mình có một phần nào của mẹ. Tác phẩm này cũng cho thấy rằng khi tình yêu của mẹ cha dành cho con trẻ đủ lớn thì dù họ có vắng mặt, những đứa trẻ vẫn đủ sức “lấp đầy” khoảng trống gia đình bằng trí tưởng tượng và tình yêu vô bến bờ của chúng. Tác phẩm kết thúc với điệp khúc quen thuộc: “Giờ này, má lại vắng nhà” (Nguyễn Thi 1984: 43), nhưng sau điệp khúc ám chỉ tác động của chiến tranh lên gia đình và trẻ em lại là những liên tưởng của con Bé: “Ở xa chỉ thấy gió biển làm những tàu dừa khẽ đu đưa, giống hệt như má đang đứng đó, vuốt tóc chị em nó” (Nguyễn Thi 1984: 43). Qua liên tưởng ấy, nhà văn Nguyễn Thi đã cho thấy trí tưởng tượng của trẻ em có sức mạnh “như một lực hồi sinh” (Reynolds 2024: 69), có khả năng nâng đỡ và giúp trẻ em tìm ra đôi cánh để bay lên bầu trời của tự do và tình yêu thương, những điều mà lẽ ra, mỗi đứa trẻ đều xứng đáng nhận được.

Qua ba tác phẩm Chiếc lược ngà, Mẹ vắng nhà, và Đất rừng phương Nam, có thể thấy những cô bé, cậu bé thời chiến có những suy nghĩ, hành động, và những lựa chọn khác nhau để thích nghi với hoàn cảnh thiếu vắng cha mẹ. Bé Thu (Chiếc lược ngà) luôn nhớ về cha qua tấm ảnh cưới của cha và mẹ. Cậu bé An (Đất rừng phương Nam) chọn cách chấp nhận mất mát, thích nghi với hoàn cảnh, học hỏi để trưởng thành. Chị em con Bé (Mẹ vắng nhà) bày trò chơi tưởng tượng về mẹ, mỗi đứa trẻ thấy mình giống mẹ theo cách riêng là một phát hiện độc đáo về trẻ em trong hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt. Cha mẹ vắng nhà, bom rơi, đạn nổ, lớp học bị phá bỏ, cô giáo thay vì cầm phấn lại cầm cây súng là hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh. Nhưng hoàn cảnh ấy, không thể dập tắt niềm vui và sự sáng tạo kì diệu của tâm hồn trẻ thơ. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, trí tưởng tượng vẫn giúp những đứa trẻ bay bổng lên bầu trời Tam Ngãi, chúng được cười, được háo hức, được thấy mẹ. Và như vậy, chính trí tưởng tượng kì diệu cũng như tình yêu thương mẹ đã khiến năm chị em con bé luôn “có đủ” cả gia đình dù vắng mẹ và cha. Ba cách phản ứng khác nhau với những khoảng trống trong gia đình của những đứa trẻ trong ba tác phẩm này cho thấy thế giới của trẻ em rất phong phú, đa dạng, và chứa đựng nhiều “bí mật”, như tựa đề cuốn sách của T. Gouin-Décarie (2018), vì vậy, không thể xếp loại mọi đứa trẻ vào một số khuôn mẫu đông cứng để nhận diện và đánh giá, cũng như không thể áp dụng một số tiêu chí nhất định để nghiên cứu văn học thiếu nhi, mà cần hiểu biết về tâm sinh lý của lứa tuổi thiếu nhi để có cái nhìn thỏa đáng và thấu đáo hơn đối với những tác phẩm có cách khắc họa hình tượng trẻ em khá mới mẻ này.

Nói tóm lại, Chiếc lược ngà, Mẹ vắng nhà, Đất rừng phương Nam không phải là những tác phẩm duy nhất tái hiện những khoảng trống gia đình thời chiến, vấn đề này đã được đề cập đến trong hầu hết các tác phẩm viết về trẻ em thời chiến tranh như Dòng sông thơ ấu (Nguyễn Quang Sáng), Tuổi thơ im lặng (Duy Khán), Quê nộiTảng sáng (Võ Quảng), Cát cháy (Thanh Quế), Đội thiếu niên du kích Đình Bảng (Xuân Sách), Đội thiếu niên tình báo Bát Sắt (Phạm Thắng), Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi). Những tác phẩm đó đều khắc hoạ, ở những mức độ khác nhau, bức tranh gia đình thiếu vắng cha, mẹ hoặc trẻ em bị tách ra khỏi gia đình, sống nhờ vào người dân ở những nơi tản cư, lánh nạn . Hoàn cảnh khắc nghiệt ấy phổ biến trong nhiều thập kỉ chiến tranh đến mức cả người lớn và trẻ em đều dần quen với điều đó và không còn xem đó là việc bất thường . Viết về hoàn cảnh của trẻ em thời chiến, Hạ Yến (2020) cho rằng: “Sống xa cha mẹ, những đứa trẻ lại có rất nhiều ông nội, bà nội, các cô, các chú ở cùng xóm, ở nơi sơ tán chăm sóc chúng như chăm sóc chính những đứa con trong gia đình, để rồi những đứa trẻ con Hà Nội lớn lên vẫn nhớ sự bao bọc của đất đai và tình người nơi thôn dã”. Nhận định này một mặt phản ánh tình người, sự đùm bọc của người lớn ở những vùng đất khác nhau đối với trẻ em, nhưng mặt khác lại làm mờ đi những khoảng trống trong gia đình thời chiến, khiến người đọc khó nhận diện được vẻ đẹp vốn có của trẻ em. khi bị đặt vào tình thế ngặt nghèo. Vì thế, nhìn trẻ em từ những khoảng trống trong gia đình do thiếu vắng cha mẹ trong chiến tranh, là một nỗ lực làm phong phú thêm cách tiếp cận nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi viết về chiến tranh. Khác với việc tìm hiểu trẻ em như những nạn nhân đáng xót thương hay đề cao thành các chiến sĩ nhỏ tuổi, những thiếu nhi anh hùng như nhiều nghiên cứu trước đây đề cập tới, bài viết đề xuất một cách tiếp cận mới: đặt trẻ em vào đúng vị trí của trẻ em, những cá nhân bé nhỏ trong không gian gia đình thời chiến.

4. Kết luận

Thông qua việc khảo sát, phân tích hình tượng trẻ em trong ba tác phẩm viết về chiến tranh Chiếc lược ngà, Đất rừng phương Nam, Mẹ vắng nhà, bài viết chỉ ra sự mới mẻ trong việc khắc họa vẻ đẹp của hình tượng trẻ em trong hoàn cảnh gia đình vắng cha mẹ trong thời chiến của Nguyễn Quang Sáng, Đoàn Giỏi, và Nguyễn Thi. Là ba trong số những tự sự đặc sắc nhất viết về trẻ em thời chiến, các tác phẩm trên đã góp phần mang tới cái nhìn rộng mở và nhân văn về trẻ em trong tình thế đặc biệt của đất nước.

Tái hiện sự trưởng thành không dễ dàng của những đứa trẻ thời bom đạn trong những gia đình xuất hiện nhiều khoảng trống, các nhà văn cho thấy trẻ em có góc nhìn và những lựa chọn ứng xử riêng để tồn tại, thích nghi, và trưởng thành trong tình thế đặc biệt của lịch sử. Chiến tranh có thể gây ra sự xáo trộn và chia rẽ gia đình, đặt ra các thách thức khiến trẻ em buộc phải trở nên mạnh mẽ hơn, trưởng thành hơn. Tuy nhiên, bất chấp sự khắc nghiệt của thực tế đời sống, bên cạnh việc mạnh mẽ hơn và trưởng thành hơn, trẻ em vẫn “bảo toàn” được sự trong sáng, hồn nhiên, mát lành và niềm tin vào những điều tốt đẹp.

Việc tái hiện nhân vật trẻ em theo cách này trong những tác phẩm văn học Việt Nam được viết ở thế kỉ XX dường như vẫn có ý nghĩa trong thế kỉ XXI khi nó chất vấn về việc người lớn cần làm gì để chiến tranh không xảy ra, không còn là mối đe doạ tới cuộc sống, thiện tính, và quyền con người của trẻ em ở khắp nơi trên địa cầu.

Tài liệu trích dẫn

Aleksiejuk, Artur. 2015. “The Significance of Experiencing Parental Love for a Child’s Development and Upbringing.” Pp. 158-166, in Nová sociálna edukácia človeka IV, eds. Ján Husár, Mariá Machalová, Tomáš Hangoni & Bohuslav Kuzyšin. Prešov: Prešovská univerzita v Prešove.

Armstrong, Jennifer. 2002. “On Reading about War and Peace.” Five Owls 16, nos. 2-4.

Bùi Mạnh Hùng (Tổng Chủ biên). 2024. Ngữ văn 7. Tập 1. Hà Nội: NXB Giáo dục Việt Nam.

Colarusso, Kathleen Dale. 1986. “World War II and Its Relevance to Today’s Adolescents.” ALAN Review 13(2): 12-14 & 70.

Đoàn Giỏi. 2020. Đất rừng phương Nam. Hà Nội: NXB Kim Đồng.

Đỗ Hải Ninh. 2018. Tự sự về chiến tranh trong văn học đương đại. Hà Nội: NXB Lao động.

Educational Policies Commission, National Education Association & American Association of School Administrators. 1943. What the Schools Should Teach in Wartime. Washington: NEA.

Gerhardt, Sue. 2014. Why Love Matters: How Affection Shapes a Baby’s Brain. London: Routledge.

Gouin-Décarie, Thérèse. 2018. Thế giới bí mật của trẻ em. Nguyễn Hiến Lê dịch. Hà Nội: NXB Hồng Đức.

Grimmer, Tamsin. 2021. Developing a Loving Pedagogy in the Early Years: How Love Fits With Professional Practice. London: Routledge.

Hạ Yến. 2020. “Trẻ em thời chiến qua những trang văn.” Hà Nội mới (). Truy cập tháng 6 năm 2024.

Hamburg, David A. & Beatrix A. Hamburg. 2004. Learning to Live Together: Preventing Hatred and Violence in Child and Adolescent Development. UK: Oxford University Press.

Hạnh Nguyên. 2023. “Đồng vọng yêu thương cho những đứa trẻ trong chiến tranh. Sông Hương (). Truy cập tháng 6 năm 2024.

Hanoi Grapevine. 2018. “Đêm phim FVH: Mẹ vắng nhà.” Hanoi Grapevine (). Truy cập tháng 9 năm 2024.

Hoài Linh. 2022. “Những hình ảnh tàn khốc của chiến tranh ở Ukraine.” Vietnamnet (). Truy cập tháng 9 năm 2024.

Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp & Nguyễn Chí Thanh. 1963. Bàn về văn hóa và văn nghệ. Hà Nội: NXB Văn hóa – Nghệ thuật.

Huỳnh Tới. 2024. “Đoàn Giỏi – Đất rừng phương Nam và bạn đọc Bà Rịa – Vũng Tàu.” Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (.). Truy cập tháng 9 năm 2024.

Kim Đồng Publishing House. 2022. “Đất rừng phương Nam trên hành trình kỳ thú 65 năm.” Nhà xuất bản Kim Đồng (). Truy cập tháng 9 năm 2024.

Kornicki, Peter & Nguyễn Thị Oanh. 2010. “Nữ tiểu học và các sách nữ huấn của Việt Nam - Dưới góc nhìn của thư chí học so sánh.” Tạp chí Hán Nôm, 6: 23-36.

Lã Nguyên. 2012. “Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa như một hệ hình giao tiếp nghệ thuật.” Nghiên cứu văn học, 8: 3-21.

Lại Nguyên Ân. 2023. “Mảng sách cho trẻ em ở Việt Nam thời kì 1930-1945 qua các tư liệu tìm được gần đây.” Nghiên cứu văn học, 2: 3-11.

Mai Thu Huyền. 2015. “Phê bình văn học Việt Nam thời trung đại: một cái nhìn khái quát.” Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, 12: 26-37.

Nguyễn Dữ. 2013. “Chuyện người con gái Nam Xương”, in trong Truyền kì mạn lục. Tái bản lần thứ nhất. Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch. Gia Lai: NXB Trẻ & NXB Hồng Bàng.

Nguyễn Khoa Điềm. 2020. “Đất nước”, in trong Ngữ văn 12 (tập một), tổng chủ biên Phan Trọng Luận. Hà Nội: NXB Giáo dục Việt Nam.

Nguyễn Minh Thuyết (Tổng Chủ biên). 2024. Ngữ văn 9. Tập 1. Tp. HCM: NXB Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh & Công ty CP Đầu tư Xuất bản – Thiết bị Giáo dục Việt Nam.

Nguyễn Sáng. 1968. Chiếc lược ngà. Krnxb: NXB Giải phóng.

Nguyễn Thành Thi (Chủ biên). 2024. Ngữ văn 10. Tập 2. Hà Nội: NXB Giáo dục Việt Nam.

Nguyễn Thi. 1984. Truyện và kí. Hà Nội: NXB Văn học.

Nguyễn Thị Thanh Hương. 2015. “Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam giai đoạn 1945-1975.” Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, 12: 38-48.

Nguyễn Văn Thịnh (Chủ biên). 2013. Văn hóa gia đình và gia tộc Việt Nam qua tư liệu Hán Nôm. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

Oliver, Mark. 2024. “The Most Important Thing Children Need Is Just Love.” Parent (). Truy cập tháng 9 năm 2024.

Phạm Văn Khoái. 1995. “Một vài vấn đề về sách giáo khoa dạy chữ Hán trong kho sách Hán – Nôm.” Thông báo Hán Nôm học 1995 (). Truy cập tháng 9 năm 2024.

Reynolds, Kimberly. 2024. Nhập môn văn học trẻ em. Phạm Phương Chi, Nguyễn Thị Thanh Hương & Nguyễn Thị Diệu Linh dịch. Hà Nội: NXB Văn học.

Russell, Catherine. 2024. “Phát biểu sau hai ngày đến thăm Trung Đông vào tháng 4/2024.” UNICEF (). Truy cập tháng 6 năm 2024.

Thái An. 2023. “Những bức ảnh lột tả sự tàn khốc của chiến tranh.” Tiền phong (). Truy cập tháng 9 năm 2024.

Trần Thị Ngọc Bảo & Nguyễn Có. 1981. Tập đọc 1. Hà Nội: NXB Giáo dục.

Trần Văn Giáp. 1984. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm – nguồn tư liệu văn học, sử học Việt Nam. Tập 1. Bản in lần thứ 2. Hà Nội: NXB Văn hóa.

Trịnh Đặng Nguyên Hương. 2022. “Tính lịch sử của tình huống sinh thái trong Đất rừng phương Nam.Nghiên cứu văn học, 9: 61- 67.

Trung Hiếu. 2017. “Sự tàn khốc của chiến tranh Việt Nam qua loạt ảnh của phóng viên Mỹ.” VOV (https://vov.vn/the-gioi/ho-so/su-tan-khoc-trong-chien-tranh-viet-nam-qua-loat-anh-cua-phong-vien-my-644581.vov). Truy cập tháng 9 năm 2024.

Văn Hồng. 1981. “Nhà xuất bản Kim Đồng và nền văn học viết cho thiếu nhi của Việt Nam”. Tạp chí Văn học, 3: 105-110.

Vân Thanh. 1982. “Truyện kể về đề tài kháng chiến chống đế quốc xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng.” Tr. 62-72, in trong Truyện viết cho thiếu nhi dưới chế độ mới. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

Vân Thanh. 1999a. “Một tập thể anh hùng: Đội thiếu niên du kích Đình Bảng.” Tr. 216-232, in trong Phác thảo văn học thiếu nhi Việt Nam. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

Vân Thanh. 1999b. “Giới thiệu lớp ‘Măng tầm vông’ trong chiến đấu ở miền Nam.” Tr.233-242, in trong Phác thảo văn học thiếu nhi Việt Nam. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

Vân Thanh (Biên soạn). 2003. Văn học thiếu nhi Việt Nam. Tập 1. Hà Nội: NXB Kim Đồng.

Vân Thanh. 2019. “Truyện viết cho thiếu nhi trong cao trào chống Mỹ.” Tr. 245-249, in trong Văn học thiếu nhi Việt Nam – Một số vấn đề về tác phẩm và thể loại. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

Whitfield, Charles. 2023. Chữa lành đứa trẻ bên trong bạn. An Vi dịch. Hà Nội NXB Lao Động.

Tiểu luận được công bố lần đầu tiên dưới dạng tiếng Anh trên tạp chí VNU JOURNAL OF SOCIAL SCIENCES AND HUMANITIES, tập 11, số 2 (tháng 4/2025) với tiêu đề: Children Dealing with Parental Absences during Wartime in Vietnamese Literature: A Study of ‘Southern Forestland’ by Doan Gioi, ‘Absent Mother’ by Nguyen Thi, and ‘The Ivory Comb’ by Nguyen Quang Sang, từ trang 157 đến 172.


[1] Những gia đình vắng mặt cha, mẹ hoặc vắng mặt cả cha và mẹ do nguyên nhân trực tiếp là hoàn cảnh chiến tranh, chúng tôi gọi vắn tắt là “những gia đình có khoảng trống” hoặc “khoảng trống trong gia đình” để tiện theo dõi.

[2] Đất nước Việt Nam đã trải qua hai cuộc kháng chiến trường kì để dành được hoà bình và độc lập vào năm 1975. Cụ thể đó là kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) và kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975)

[3] Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi) được dịch ra nhiều thứ tiếng[3], được dựng thành phim[3], tái bản nhiều lần[3] và một số trích đoạn được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 và lớp 10 trong chương trình giáo dục hiện hành ở Việt Nam (Bùi Mạnh Hùng 2024, Nguyễn Thành Thi 2024).

Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) tác giả được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt II năm 2001, tác phẩm được lựa chọn để đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 (Nguyễn Minh Thuyết 2024).

Mẹ vắng nhà (Nguyễn Thi), Mẹ vắng nhà đã được đạo diễn Nguyễn Khánh Dư dựng thành phim vào năm 1979 và bộ phim đó đã giành giải Bông Sen Vàng cho phim truyện nhựa tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 5 và giải thưởng tại Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary 1980 (Hanoi Grapevine 2018).

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Baovannghe.vn- Tôi về ấp Sơn Ton, xã Cù Lao Dung, thành phố Cần Thơ vào một ngày tháng tám, khi miền Tây vào giữa mùa mưa, mang theo những cơn giông bất chợt.
Làng không còn xanh bóng tre

Làng không còn xanh bóng tre

Baovannghe.vn - Trước hết, hãy thử dừng lại một chút để hiểu cho tường tận hai tiếng “làng”. Làng (thôn, bản, tổ dân phố) - không chỉ là một đơn vị cư trú đơn giản trên bản đồ.
Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Baovannghe.vn - Bộ GD&ĐT vừa có văn bản gửi một số sở GD&ĐT lấy ý kiến góp ý dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 29/2024/TT-BGDĐT ngày 30/12/2024 của Bộ trưởng Bộ GDĐT (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm.
Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Baovannghe.vn - Hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức (1975 – 2025), vào hai đêm 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm, Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức hòa nhạc mang tên Tấu khúc lưỡng cực – A Rhapsody of Two Worlds.
Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ