Khi mới được xuất bản vào cuối năm 1990 dưới nhan đề Thân phận của tình yêu tại nhà xuất bản Hội Nhà văn, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh khiến công chúng choáng ngợp bởi ý thức phản tỉnh quyết liệt về cuộc chiến tranh, và bởi những suy tư giằng xé về tình yêu trải qua cuộc chiến ấy, bằng một văn phong tiếng Việt điêu luyện hiếm thấy. Những suy tư về nghệ thuật hô ứng với kỹ thuật tự sự hiện đại trong tác phẩm cũng là một phương diện tạo ấn tượng mạnh với người đọc. Khi cuộc chiến tranh đau thương vừa mới kết thúc; khi thế giá người lính bị thách thức nghiêm trọng bởi đời sống hậu chiến; khi một trạng thái thời bình chớm nở trong khó khăn đã ít nhiều cho phép người dân được sống lại đời sống thân thuộc – những thói thường ấm lạnh, những toan tính vật chất và đòi hỏi đạo đức, những nhu cầu văn hóa và tâm linh, tinh thần và tình cảm; và khi người nghệ sĩ bất ngờ được trao cơ hội lĩnh xướng cả một phong trào cải cách xã hội diễn ra sâu rộng và đầy hứng khởi, dễ hiểu vì sao các chủ đề chiến tranh, tình yêu và nghệ thuật trong tiểu thuyết của Bảo Ninh tạo được sức hấp dẫn, lôi kéo được sự quan tâm, chú ý.
![]() |
| Nhà văn Bảo Ninh. Ảnh:NV |
Chúng ta nhớ rằng, vào lúc tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh ra đời, phong trào đổi mới văn nghệ hưởng ứng chính sách đổi mới đất nước được khởi xướng bởi Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội toàn quốc lần thứ 6 (12/1986) chỉ vừa mới qua thời điểm cao trào. Nhà văn và công chúng văn học còn chưa hết thắc mắc, thậm chí với một số là bất bình, về những điều chỉnh trong chính sách thắt chặt quản lý văn hóa văn nghệ, như cách thức mà chính quyền đề phòng sự sụp đổ chế độ một cách chóng vánh và có tính dây chuyền theo kiểu các nhà nước cộng sản ở Đông Âu, mà nguyên nhân được cho là đến từ sự phổ biến hấp tấp các mô hình cải tổ chính trị - xã hội chưa đủ kiểm chứng qua thực tiễn. Việc xuất bản và tiếp nhận Nỗi buồn chiến tranh trong những năm đầu 1990 nằm trong bối cảnh căng thẳng của nhu yếu cải cách và toan lo đổ sụp ấy. Nó lí giải cho việc một bộ phận nhà văn dành cho Nỗi buồn chiến tranh và Bảo Ninh nhiều lời ngợi khen, từ tài năng nghệ thuật đến phẩm cách nhà văn, ý thức phản tỉnh sâu sắc và dũng cảm của người trí thức. Trong khi từ một phía khác, một bộ phận các nhà quản lý văn hóa và các nhà văn thì cực lực lên án, nhất là khi tiểu thuyết được trao giải thưởng chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, mà họ cho rằng vì một trật khớp nào đấy, giải thưởng của tổ chức chính trị xã hội cao cấp nhất của các nhà văn này đã vô tình hợp thức cho nhận thức chính trị sai lầm và lựa chọn nghệ thuật sai lạc của nhà văn cựu binh Bảo Ninh. Song sự phê phán còn được đẩy mạnh hơn khi Nỗi buồn chiến tranh lần đầu được dịch sang tiếng Anh và nhận giải thưởng của nhật báo Anh The Independent dành cho Tiểu thuyết nước ngoài xuất sắc năm 1994 (The Independent Foreign Fiction Prize 1994) dựa trên phiên bản tiếng Anh The Sorrow of War của Frank Palmos (Martin Secker & Warburg, 1993). Việc sớm được dịch sang tiếng Anh và được ghi nhận bằng giải thưởng ở nước ngoài đem đến đời sống văn học quốc tế cho tiểu thuyết ngỡ tưởng có thể làm chỗ dựa cho Bảo Ninh. Nhưng ngược lại, nó là giọt nước tràn ly đánh dấu chấm hết sự hiện diện của tiểu thuyết trong đời sống văn học quốc nội, theo sau một cuộc phê bình, khởi động trên Tạp chí Cộng sản từ cuối năm 1994 rồi bùng lên lại trên báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh vào mùa Thu năm 1995. Trong tình thế chuyển đổi, khi cuộc chiến ý thức hệ vẫn còn diễn ra gay gắt, sự xuất hiện của “yếu tố nước ngoài” đã tác động mạnh mẽ đến việc nhìn nhận tiểu thuyết này. Phải cho tới khi toàn cầu hóa được biết đến ở Việt Nam, góp phần bình thường hóa đối kháng ý thức hệ và nhen nhóm trở lại quá trình dân chủ hóa ý thức văn học cùng với quá trình ngoại biên hóa của chính văn học nghệ thuật, Nỗi buồn chiến tranh mới được tái bản vào những năm đầu thế kỷ 21.
Suốt những năm 1990 đến đầu những năm 2000, ngoài việc bị “đóng băng” tiểu thuyết đầu tay và duy nhất
![]() |
| Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh |
này, Bảo Ninh vẫn hiện diện như một tác giả truyện ngắn. Cho dù vào giữa năm 1992, Bảo Ninh đăng “Gió dại” – một truyện ngắn viết về chiến tranh gây sốc khác sau Nỗi buồn chiến tranh – trên tạp chí địa phương cấp tiến ở Quảng Trị: Cửa Việt (số 16, tháng 8/1992). Cùng với bài thơ “Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ” của Nguyễn Duy, và tất nhiên gộp thêm nhiều bài viết từ trước, truyện ngắn “Gió dại” trở thành một “nghịch âm” khiến tạp chí này phải đình bản ngay sau số đó. Tuy vậy, không tính đến các tuyển tập nhiều tác giả, mười năm sau tập truyện ngắn đầu tay – Trại “Bảy chú lùn” tại nhà xuất bản Hà Nội (1987) – cuối năm 1996 đến giữa năm 1997, Bảo Ninh xuất bản hai tập truyện ngắn: Khắc dấu mạn thuyền tại nhà xuất bản Văn học và Truyện ngắn Bảo Ninh tại nhà xuất bản Công an nhân dân. Thời điểm giữa hai tập truyện, tại Hội nghị lần 9 Ban Chấp hành Hội Nhà văn khóa 5 (18-20/1/1997), Bảo Ninh được xét kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Đây cũng là thời điểm Bảo Ninh về làm việc ở Văn nghệ Trẻ - một phụ trương của tuần báo Văn nghệ mới được thành lập. Tham gia hoạt động báo chí chuyên nghiệp ở tòa soạn này, Bảo Ninh cho thấy văn tài đa dạng, khi viết các tạp bút xuất sắc về văn chương (ký Bảo Ninh) và về các vấn đề văn hóa xã hội (ký bút danh khác là Nhật Giang). Nói cách khác, chỉ Nỗi buồn chiến tranh, Gió dại mất đi không gian xã hội chứ tác giả của nó thì vẫn hoàn toàn vô sự. Nó cho thấy trong mắt người đương thời, chiến tranh vẫn là một chủ đề nhức nhối, một vết thương nóng hổi. Nó cần thêm thời gian để xoa dịu những vết thương chưa lành đó. Vì thế, phải đến những năm 2000, khi cả hai tác phẩm bị lên án của Bảo Ninh – Nỗi buồn chiến tranh và “Gió dại” – được trở lại với đời sống (với tiểu thuyết, dưới tên ấn bản lần đầu Thân phận của tình yêu vào năm 2003, và dưới tên quai nôi Nỗi buồn chiến tranh vào năm 2005; trong khi, với truyện ngắn, sự trở lại lần đầu dưới một tên khác – “Mùa khô cuối cùng” – và có lược bớt mấy câu kết từng trực tiếp bị quy kết chính trị, trong một tuyển tập “những truyện ngắn hay nhất và mới nhất” vào năm 2005, và dưới tên quai nôi cùng sự nguyên vẹn của văn bản công bố lần đầu tiên, trong tuyển tập “tác phẩm chọn lọc” vào năm 2011), các nghiên cứu về Nỗi buồn chiến tranh cũng theo đó mà hiện diện trở lại. Có thể nói, những tiếp cận đa dạng và có bài bản về Nỗi buồn chiến tranh đã cho thấy trữ lượng nghệ thuật giàu có của tiểu thuyết này, đồng thời qua việc tìm hiểu về tiểu thuyết, nhà nghiên cứu giúp bạn đọc kết nối có chiều sâu vào không gian văn hóa xã hội và văn học Việt Nam hậu chiến. Nhưng rõ ràng, việc quá chú tâm vào văn bản, vào các kỹ thuật tự sự và chủ đề chính yếu của tiểu thuyết ít nhiều lại tạo ra sự gián cách giữa tiểu thuyết với bối cảnh xã hội đặc thù mà nhà văn và tiểu thuyết thuộc về. Đứng riêng ra một cách độc lập, Nỗi buồn chiến tranh vẫn cho thấy sức mạnh kháng cự và chất vấn hào quang chiến tranh, điều làm nên giá trị nhân đạo sâu sắc cùng tính phản chiến mạnh mẽ của tác phẩm. Song phải đặt nhà văn và tiểu thuyết vào trong không khí bức bách các nhu cầu đổi mới xã hội và văn học, vào trong sự quy chiếu của ý thức hệ và các tương quan quyền lực, mới thấy rõ được vai trò công chúng và ý thức phản biện xã hội của nhà văn và văn học.
![]() |
| Bản dịch sách "Nỗi buồn chiến tranh" |
40 năm từ công cuộc Đổi Mới, tôi tin rằng tính chính trị chuyển đổi đã quy chiếu lựa chọn của nhà văn và bạn đọc trong cách thức sáng tạo và diễn giải văn học và lịch sử, cá nhân và cộng đồng, dân tộc và thời đại. Ở trường hợp Nỗi buồn chiến tranh, việc nhà văn hình dung về chiến tranh như một chấn thương đời tư đã thách thức các quan điểm chủ lưu lúc đó, khiến bản thân cuốn tiểu thuyết này từ một sáng tạo cá nhân trở thành một hiện tượng xã hội thu hút sự chú ý đặc biệt của công chúng. Trong bối cảnh xã hội đang có những dịch chuyển quan trọng như là những hệ quả mà phong trào đổi mới mang lại, sự xuất bản và tiếp nhận ấy trở thành nơi giao cắt và cạnh tranh quyết liệt của các ý thức hệ khác nhau. Nhìn nhận tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh như một hiện tượng văn hóa hậu chiến, dễ dàng nhận thấy các nỗ lực tái nhận thức về chiến tranh, các cách thức trưng dụng quá khứ chiến tranh ở Việt Nam thời hậu chiến thể hiện qua các chiến lược xuất bản và các tranh luận xoay quanh việc tiếp nhận tiểu thuyết này. Điều đó lí giải nguyên nhân của sự trỗi dậy các quan tâm tới vấn đề chiến tranh và thảo luận về những ám ảnh lẫn vai trò kéo dài của cuộc chiến tranh này trong các dự án xây dựng ảnh tượng của một nước Việt Nam mới, nảy sinh từ trong phong trào Đổi mới và được định hình bởi các tương quan đa dạng khi Việt Nam mở cửa hòa nhập với khu vực và thế giới.
Đặt Nỗi buồn chiến tranh trong không gian chính trị xã hội và văn học nghệ thuật mà nó thuộc về mới thấy rõ tính chính trị chuyển đổi đã quy chiếu mạnh mẽ thế nào đến chiến lược xuất bản và tiếp nhận tác phẩm. Nguồn cội của sự phân hóa, các lôi kéo và trưng dụng tất nhiên phải dựa trên cái nhìn và sự thực hành quan điểm nghệ thuật của Bảo Ninh. Kháng cự chủ nghĩa anh hùng xóa nhòa khuôn diện cá nhân, Bảo Ninh xây dựng tiểu thuyết dựa trên chấn thương đời tư, và coi việc viết về chiến tranh như là cách thức trả lại nhân diện đầy đặn của con người trong và bước ra từ cuộc chiến. Đương thời đọc tiểu thuyết, từ người biên tập cho đến các kiểu bạn đọc khác nhau, ai cũng nhận thấy Nỗi buồn chiến tranh mang đậm dấu ấn chủ quan – từ các suy ngẫm, các trải nghiệm đến những dằn vặt giằng xé sầu khổ đều chỉ là của tác giả – dù cho Bảo Ninh đã lưu ý về việc mỗi người lính ngay từ trong chiến tranh “đã mang trong lòng một cuộc chiến tranh của riêng mình” và “đương nhiên mỗi người một số phận hậu chiến” nhưng lại “giống nhau ở chỗ là hoàn toàn khác nhau trong cái vẻ hoàn toàn giống nhau trong quá trình nặng nề đeo đuổi cuộc chiến” (Thân phận của tình yêu, tr.282). Dường như ai cũng bị hút vào nỗi đau riêng ấy, và thấy từ đó hiện hình nỗi đau chung của chiến tranh, của dân tộc, và của cả loài người, hoặc chỉ thấy từ nó một hiện tượng dị biệt, để cất tiếng đồng tình hay phản đối. Theo đó, từ một sáng tạo cá nhân để trở thành một hiện tượng xã hội, được đông đảo bạn đọc đón nhận và gây ra sự phân hóa sâu sắc giữa họ, điều ấy còn do tác phẩm được sinh thành trong tình cảnh chuyển đổi, khi xã hội và mỗi con người đang vỡ ra xoay chuyển nhiều hướng tìm thoát khủng hoảng từ đời sống vật chất đến điểm tựa tinh thần.
Vào lúc Nỗi buồn chiến tranh ra đời, sự khó khăn của đời sống xã hội hậu chiến cộng với sự chuyển đổi chóng mặt trong đời sống tư tưởng hậu chiến tranh Lạnh mở ra những thách thức và cơ hội, hướng nhà văn rút lui vào thế giới riêng hay bước ra thực hiện trách nhiệm với cuộc đời. Không lựa chọn con đường của “nhà văn phường” trong tiểu thuyết, Bảo Ninh đã đối diện với thực tại đó và cất tiếng nói. Bảo Ninh tìm thấy “niềm cảm hứng, niềm lạc quan quay ngược về quá khứ” để sống trong “nỗi buồn chiến tranh mênh mang, nỗi buồn cao cả, cao hơn hạnh phúc và vượt trên đau khổ”, và cho rằng nhờ vào nỗi buồn ấy mà “thoát khỏi chiến tranh” “để bước trở lại con đường riêng của mỗi cuộc đời, những cuộc đời có lẽ chẳng sung sướng gì và cũng đầy tội lỗi” nhưng vẫn là “cuộc đời đẹp đẽ nhất” và “có thể hy vọng, bởi vì đấy là đời sống hòa bình” (Thân phận của tình yêu, tr.282). Việc tách khỏi dàn đồng ca viết về chiến tranh “nhiều không khí hội hè cờ hoa tiếng hát” để viết về “nỗi buồn chiến tranh” trong hình hài “tác phẩm văn chương đích thực” khiến cho tác phẩm được giới xuất bản chào đón. Tuy nhiên, tiểu thuyết cũng phải chấp nhận đổi tên để hiện diện dưới hình hài thị trường, một mặt để che lấp sự khác biệt ý thức hệ và mặt khác hứa hẹn doanh thu nuôi sống nhà xuất bản, cho tới khi tích lũy đủ vốn tượng trưng để có thể xuất hiện trở lại với tên quai nôi.
Với đời sống phê bình, các bài viết khen ngợi Nỗi buồn chiến tranh, bên cạnh việc ghi nhận vẻ đẹp văn chương, thường nhấn mạnh những tư tưởng và tiếng nói khác biệt, riết róng và thành tâm, trong việc làm sống lại những nỗi đau thân phận riêng lẻ như là cảm hứng nhân đạo toát ra từ tác phẩm. Và cùng với tiểu thuyết, tác giả của nó cũng được đánh giá từ phương diện lương tâm và trách nhiệm của người nghệ sĩ theo cùng những dấn thân nghệ thuật. Phía phê phán thì lật ngược tất cả những nhận định này, khi cho rằng Nỗi buồn chiến tranh chỉ là sự cộng gộp của quan niệm nghệ thuật rối loạn và lối hành văn rối bời, của tư tưởng chính trị sai lầm và lựa chọn nghệ thuật sai lạc. Bị chi phối bởi ý thức hệ, nhận thức về cuộc chiến đã qua chiếm giữ địa vị trung tâm trong các tranh cãi xung quanh hiện tượng Nỗi buồn chiến tranh. Sự nhận thức này là cần thiết khi đất nước bước vào thời bình. Nó càng trở nên bức thiết khi đất nước bước vào thời chung sống hòa bình với không phải bạn bè, thậm chí là kẻ thù. Nỗi buồn chiến tranh đã làm nên một cơn kịch phát những quan ngại ở Việt Nam vào nửa đầu những năm 1990, ở thế hệ những người từng chứng nghiệm sự tàn khốc của cuộc chiến, trong những băn khoăn về hướng đi mới của đất nước, hình ảnh mới của dân tộc, trước di sản đổ vỡ chóng vánh của hệ thống xã hội chủ nghĩa anh em và tương lai bè bạn với tư bản đế quốc giờ phút chốc đã trở thành cựu thù. Ngày nay, sẽ không có gì xa lạ nếu như những tiếng nói ấy vẫn còn cất lên đây đó khi cuộc chiến mới chỉ đi qua có nửa thế kỷ!
![]() |
| Sách Nỗi buồn chiến tranh liên tục được tái bản ở Việt Nam. |
Nhưng cuối cùng, nhìn từ hệ hình tư tưởng văn hóa, khi tính chính trị chuyển đổi đã qua đi – cái tính chất rõ ràng đã giúp cho Nỗi buồn chiến tranh giữ một địa vị quan trọng của những nhận thức và nhận đường thời hậu chiến; và khi những người trực tiếp trải nghiệm tang tóc chiến tranh không còn nữa – những người đã làm nên dư luận đồng tình và phản đối tác phẩm – thì điều gì nuôi dưỡng sức sống mãnh liệt của Nỗi buồn chiến tranh? Rõ ràng, trừu xuất hình thức nghệ thuật đã cho thấy tài năng tác giả là một nguồn cội duy trì sức hấp dẫn bền lâu của tác phẩm. Nhưng vẫn còn đó một vấn đề chưa được nhìn nhận thấu đáo: khía cạnh đạo đức của sự ghi nhớ mà Bảo Ninh đã chỉ ra, cật vấn và đòi hỏi. Sức mạnh làm nên sự trường tồn của Nỗi buồn chiến tranh là ở đấy: vượt qua sự quy chiếu của không gian và thời gian, Bảo Ninh thôi thúc người đọc làm sao để “không bị sự quên lãng xói mòn” (Thân phận của tình yêu, tr.282). Đó là hạt nhân của tư tưởng tác giả, là tiếng gọi tha thiết của tác phẩm, kết nối các thế hệ trải qua cuộc chiến với các thế hệ ghi nhớ cuộc chiến ấy.