Diễn đàn lý luận

Thảm kịch Trần Nguyên Hãn trong tầm nhìn của Đỗ Hàn

Hữu Thỉnh
Tác phẩm và dư luận 13:27 | 03/09/2025
Baovannghe.vn - “Dòng Lô xanh thẳm” của Đỗ Hàn là cuốn tiểu thuyết thứ ba cùng viết về thảm kịch Trần Nguyên Hãn mà tôi được đọc. Hai cuốn trước, một là của Nguyễn Anh Đào, hai là của Xuân Mai.
aa

Cả ba tác giả cùng quê Vĩnh Phúc, rất thông thuộc về địa hình, phong tục, sản vật đến nết đất nết người của vùng Sơn Đông, quê hương của Trần Nguyên Hãn. Đứng về sử học thì cả ba tác giả đều có chỗ giống nhau. Nhưng nói về thông điệp văn chương thì họ có chỗ khác nhau. Nếu hai tác giả trên đều thiên về xây dựng hình tượng nghệ thuật Trần Nguyên Hãn là một võ tướng lừng danh bên cạnh Lê Lợi và Nguyễn Trãi thì Đỗ Hàn ngoài chỗ giống nhau còn xây dựng Trần Nguyên Hãn là một chính khách có nhãn quan chính trị đi trước lịch sử hàng mấy thế kỷ. Đó là việc ông muốn xây dựng một xã hội tất cả do dân, vì dân, thích ứng với một mô hình tổ chức Nhà nước vô cùng mới mẻ mà ngay cả với một người có trí tuệ siêu việt như Nguyễn Trãi cũng không thể nghĩ ra. Đó là câu chuyện sau khi quân Minh đã bị đánh đuổi khỏi đất nước. Còn bây giờ là chuyện chọn minh chủ và đạo cầm quân của vị võ tướng đầu triều.
Về dòng dõi xuất thân, Đỗ Hàn cho ta biết Trần Nguyên Hãn là cháu sáu đời của Chiêu Minh Đại Vương Thượng Tướng Thái sư Trần Quang Khải, là cháu bảy đời của Hoàng đế khai mở triều Trần - Trần Thái Tông, là cháu nội ba đời của Chương túc quốc thượng hầu Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Để tránh lệnh truy nã của quân Minh vì có người nhà tham gia khởi binh phục Trần ở Nghệ An, ông Trần Ấn đưa vợ từ làng Nhị Khê lên lánh nạn tại làng Đa Cai, thuộc trang Sơn Đông, huyện Lập Thạch, Phủ Tam Đới. Tại đây, Trần Nguyên Hãn đã ra đời năm 1390. Khi còn ở tuổi thiếu niên, Trần Nguyên Hãn đã phải đau lòng chứng kiến cảnh cha mình bị quân Minh thiêu xác trước trại doanh của chúng. Lớn lên, mang nặng thù nhà nợ nước, Trần Nguyên Hãn đã cùng hai người anh em kết nghĩa là Cả Pheo và Ba Giản lập căn cứ Rừng Thần và hồ Thạch Trục để chiêu mộ và rèn luyện binh sĩ. Với đội thuỷ binh quả cảm và thiện chiến, nghĩa quân của Trần Nguyên Hãn đã đánh tan đội quân nhà Minh ở ngã ba Bạch Hạc, làm chúng co vòi, không dám tung quân đi lùng sục và bắt bớ dân thường ở các làng lân cận.

Thảm kịch Trần Nguyên Hãn trong tầm nhìn của Đỗ Hàn
Tập sách "Dòng lô xanh thẳm" của nhà văn Đỗ Hàn

Năm 1416, Lê Lợi làm lễ ăn thề tại Lũng Nhai. Cũng năm ấy, Trần Nguyên Hãn và Cả Pheo rời quê hương tìm vào với nghĩa quân Lam Sơn. Dọc đường hai ông bị quân Minh theo sát và ngăn chặn ráo riết quá, đành phải quay lại cố hương.

Sang năm 1417, Trần Nguyên Hãn buộc thanh bảo kiếm làm đòn gánh, một mình tìm vào với Lê Lợi. Tại Lam Sơn, Trần Nguyên Hãn dâng thanh bảo kiếm từ ông tổ sáu đời Trần Quang Khải cho Lê Lợi. Đó là thanh kiếm mà Trần Quang Khải đã chém đầu Toa Đô. Lê Lợi mừng lắm và luôn giữ bên mình. Biết Trần Nguyên Hãn giỏi về thuỷ binh, Lê Lợi đã giao cho ông đưa quân lên đánh tan đồn Tam Giang, buộc giặc co vòi về Đông Quan. Đội quân thuỷ binh thiện chiến này đã được Trần Nguyên Hãn dày công rèn luyện tại căn cứ Núi Thần.

Sau tám năm khởi nghĩa, quân binh của Lê Lợi chỉ quanh quẩn tác chiến tại vùng núi Thanh Hoá. Từ khi Trần Nguyên Hãn đứng dưới cờ, Lê Lợi đã giao cho ông cầm quân xuống đồng bằng, rồi kéo vào tận Tân Bình, Thuận Hoá, mở rộng địa bàn hoạt động của nghĩa quân ra một vùng rộng lớn, giúp Lê Lợi sau 8 năm thế thủ chuyển sang thế phản công. Trên đường hành quân cũng như thắng trận trở về, mặc dù sẵn có voi, ngựa nhưng ông không cưỡi mà đi bộ cùng binh sĩ, ăn gió nằm sương, được binh sĩ hết lòng kính phục và ưng thuận. Chiến công Tân Bình, Thuận Hoá là một bước chuyển biến căn bản của nghĩa quân Lam Sơn, làm tăng thêm tiềm lực quân sự và uy danh của Lê Lợi.

Trần Nguyên Hãn không những giỏi về cầm quân mà còn rất thông thạo về chiến thuật, chiến lược. Khi nghĩa quân Lam Sơn từ vùng núi tiến xuống đồng bằng, không còn nơi dựa vào địa thế hiểm nghèo, khác nào mất một chiếc áo giáp, trước tình hình đó, ông đã nghiên cứu thay đổi cách đánh, chọn đầu cầu làm quyết chiến điểm đánh quân Minh tăng viện. Nhử quân Minh vào đầu cầu khác nào kéo chúng vào con đường độc đạo, hai bên là sông nước, không thể vòng ra phía sau đánh tập hậu, quân mai phục của ta cứ chặn đầu khoá đuôi xông lên xả thây quân giặc như chém chuối. Với chiến thuật đánh đầu cầu, Trần Nguyên Hãn đã bày mưu cho Cả Pheo cùng các tướng sĩ đánh hai trận đại thắng ở Chúc Động, Tốt Động, làm thay đổi cán quân lực lượng giữa quân ta và quân địch.

Với chiến thắng lẫy lừng đó, Lê Lợi đã kéo đại quân ra vây thành Đông Quan và đặt đại bản doanh tại bến Bồ Đề. Tại đây, bên trong thì Nguyễn Trãi dùng kế đánh vào lòng người, bên ngoài thì Lê Lợi hãm thành, buộc tướng giặc Vương Thông phải viết thư về nước xin cầu viện. Nhận được thư cầu viện khẩn cấp của Vương Thông, vua Minh vội đưa 15 vạn quân sang cứu viện. Chúng chia làm hai cánh quân. Cánh quân thứ nhất gồm 10 vạn tên và 2 vạn ngựa do Liễu Thăng chỉ huy đi theo đường bộ đánh vào cửa Pha Luỹ, Lạng Sơn, thẳng đường tiến về Đông Quan. Cánh quân thứ hai gồm 5 vạn tên do Mộc Thạch chỉ huy từ Vân Nam đi thuyền dọc sông Hồng thẳng xuống Đông Quan.

Để đối phó với quân địch, Lê Lợi cử Trần Nguyên Hãn lên công phá thành Xương Giang, làm cho quân tăng viện của địch mất chỗ dừng chân. Lê Lợi nói:

- Trong các thành quân Minh đang trấn giữ, Thái uý biết thành Xương Giang cần phải hạ ngay.

- Đúng như vậy, thưa Chúa Công.

- Quân ta đã cho Tư đồ Lê Sát, Nguyễn Lý chỉ huy, vây đồn đã sáu tháng, đã dụ hàng trên mười bức thư, đã công thành tám lần, giao tranh trên ba mươi trận, quân Minh trong thành chết hơn một nửa, nhưng ta vẫn chưa hạ được thành.

- Thưa Chúa Công, hạ thành kiên cố khác với diệt quân trên đường. Đánh tiêu hao lực lượng khác đánh chiếm toàn bộ mặt trận.

- Ý Thái uý thế nào?

- Theo ý thần, đánh để giặc mất ăn mất ngủ, giặc tự rút lui thì ta dùng quân ít địch nhiều, quân yếu chống mạnh được. Nhưng để làm chủ chiến trường, làm chủ tình thế thì không ngoài cách dùng quân nhiều hơn địch, dùng tổng lực, đánh áp đảo.

- Thái uý nói rất hợp ý ta. Vậy Thái uý cần bao nhiêu quân?

- Thần vẫn chỉ dùng ba ngàn quân của hai bộ Khoái Châu và Lam Giang hiện có tại chiến trường. Nhưng xin tiếp tục dùng phép “Mưu phạt tâm công” của Người.

- Đúng là chỉ có ông mới giúp quân ta thắng trận này. Ta chờ tin báo tiệp của ông (Trang 136,137,138).

Đọc đoạn đối thoại trên, ta biết Lê Lợi đánh giá cao tài năng của Trần Nguyên Hãn và tin tưởng vào ông biết nhường nào.

Trần Nguyên Hãn vâng lệnh lên Xương Giang. Sau khi đích thân đi quan sát, nắm chắc cách xây thành luỹ và tâm trạng của địch, Ông cho mời tất cả các bô lão các làng xung quanh đến dự bàn. Cuộc họp rất đông đủ, chẳng khác nào hội nghị Diên Hồng của tổ tiên. Sau khi nghe Trần Nguyên Hãn trình bày mưu kế hạ thành, các bô lão vội về ngay bản quán làm việc với dân làng. Mấy hôm sau, vào buổi sáng quân Minh thức dậy trèo lên thành vô cùng hoảng hốt nhìn ra ngoài thấy một toà thành sừng sững được dựng lên, cờ xí rợp trời, đối diện với thành Xương Giang. Chúng không hiểu sức đâu mà quân Lê Lợi lại xây được cái thành to lớn như thế chỉ trong một đêm. Như vậy, quân Lam Sơn phải có mấy chục vạn. Một truyền mười, mười truyền trăm, quân địch vô cùng hoảng hốt. Trong lúc tướng sĩ quân Minh còn chưa biết phải làm gì thì từ sáu mặt, quân ta hò reo xông lên mặt thành cùng với đạn đá, thuốc nổ, chất cháy quăng như mưa vào trong thành. Thêm vào đó là tiếng voi ré, ngựa hí, tên bay ngợp trời. “Chưa đầy nửa canh giờ, thành Xương Giang bị hạ. Các tướng giặc Lý Nhậm, Kim Dận, Cổ Phúc rút gươm tự vẫn. Các viên quan văn, tri phủ thắt cổ chết. Đến chết rồi, các tướng giặc vẫn không hiểu được rằng sao quân Lam Sơn xây thành nhanh đến thế. Chúng đâu có ngờ rằng, ba đêm trước, dân làng trong vùng đã hợp lực xây bức thành bằng nứa. Dân làng Đông Nham dựng thành, dân làng Nam Xương vẽ hình gạch tường thành. Cờ xuý do Trần Thái uý đặt may, lại dùng tốp lính theo Cả Pheo treo cờ trên vách thành, rồi cho quân kỵ và quân bộ dong cờ chạy quanh bức thành giả khi sương sớm chưa tan. Thì ra phép “Tâm công” của Thái uý chính là đây. Dụ hàng và doạ hàng cũng giống nhau. Chỉ khác là khi cần kíp thì doạ cho lung lay ý chí, không kịp suy nghĩ thiệt hơn” (Trang 145).

Tin thành Xương Giang bị hạ bất ngờ và chớp nhoáng đã không cánh mà bay làm cho hai cánh quân thuỷ bộ của quân Minh đang tiến vào nước ta kinh hồn bạt vía.

Tại Lạng Sơn, các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Lãnh, Đinh Liệt đem một vạn quân mai phục ở Chi Lăng. Quân ta dựa vào địa thế hiểm trở, lừa quân địch vào đúng ổ phục kích, bốn mặt xông lên, xé quân địch ra mà đánh, khiến Liễu Thăng phải rơi đầu ở núi Mã Yên.

Tại hướng sông Hồng, quân Lam Sơn đưa tù binh của cánh Liễu Thăng lên báo tin cho Mộc Thạch. “Mộc Thạch vội vàng cho quân rút chạy. Nghĩa quân Lam Sơn dưới sự chỉ huy của Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đã truy kích tiêu diệt trên một vạn quân Minh, làm tan rã cánh quân này. Vương Thông phải chấp nhận nghị hoà và không xin phép triều đình Minh, đã tự ý rút quân về nước” (Trang 151).

Đuổi giặc ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi cùng đại bản doanh kéo quân vào thành Đông Quan. Trong lễ tuyên công trạng, Trần Nguyên Hãn được xếp thứ ba, được vua phong chức Tả tướng quốc và ban quốc tính. Ông trở thành vị quan đầu triều, nắm toàn bộ việc quân.

Với vinh quang tột đỉnh ấy, người ta cứ tưởng Trần Nguyên Hãn cứ ung dung ngồi hưởng lộc trời. Nhưng không. Chỉ sau lễ tuyên công trạng mấy hôm ông đã xin Bình Định vương Lê Lợi được về quê an trí.

Lê Lợi không cần suy nghĩ gì lâu, liền chấp nhận nguyện vọng của Trần Nguyên Hãn. Nếu như ngày xưa, Trần Nhân Tông đã dứt bỏ mọi quyền lực tới mức tối thượng như vứt bỏ một đôi dép rơm, thì đời nay Trần Nguyên Hãn cũng nhẹ nhõm rũ bỏ vinh hoa như rũ bỏ một đám bụi trần để trở về làm một người dân thường. Thật đúng như lời ông đã tâm sự với Cả Pheo “Anh em mình nhập Lam Sơn theo Bình Định Vương có phải để vinh thân phú gia đâu. Chúng ta chỉ có một ước nguyện là đuổi lũ giặc Minh tàn ác ra khỏi bờ cõi, nước Đại Việt được độc lập, dân Đại Việt ta được no ấm, sung sướng an hưởng thái bình” (Trang 25). Đó mới thực sự là cái Tâm, cái Đức, cái cốt cách cao vời vợi của Trần Nguyên Hãn. Bởi trong nguyện ước của ông, trong tâm trí của ông còn có cái cao vọng to lớn và đáng giá gấp ngàn lần cái chức Tả tướng quốc. Nhưng không mấy ai biết được điều đó. Thế nên câu chuyện ông dứt áo từ quan xưa nay cũng có lắm lời bàn. Mà xem ra lời bàn nào cũng có cái lý của nó. Người ta cho rằng, Trần Nguyên Hãn một mực xin về vì nhìn thấy cái tướng cổ cao, mũi quặp của Lê Lợi giống hệt Việt Vương Câu Tiễn chỉ chung nhau hoạn nạn chứ không thể chung hưởng thái bình. Người ta lại bảo Lê Lợi chống quân Minh nhưng mọi cách trị vì thiên hạ đều học theo nhà Minh, kể cả việc ra tay giết công thần của Chu Nguyên Chương, trong số 34 vị công thần thì 32 vị bị giết. Lại có người nói nhẹ đi cho Lê Lợi, cho rằng Lê Lợi bị đám gian thần xúc xiểm. Trần Nguyên Hãn không phải không biết có những lời bàn như thế, nhưng ông đều im lặng, chỉ có điều đau đáu một mình là ông thấy thanh bảo kiếm gia truyền mà ông thành kính dâng lên Lê Lợi đã không còn thiêng nữa vì nó đã nhuốm máu nhiều quá, Lê Lợi hiếu sát quá. Ông buồn vì điều đó, đau đớn vì điều đó.

Mà cũng lạ. Một thanh kiếm thần được Trần Nguyên Hãn dâng lên Lê Lợi trước ba quân tướng sĩ ai ai đều biết, thế mà nó bị Nguyễn Trãi viết thành của Lê Thân trao cho Lê Lợi, ông cũng đành im. Chỉ có điều đáng buồn là Lê Thân cướp công người khác như Lý Thông thì không nói làm gì, thế mà ngay Nguyễn Trãi vì bị sức ép gì mà phải làm một việc đổi trắng thay đen tày đình đến thế? Đến cả Lê Lợi cũng thản nhiên chấp nhận sự phi lý đó mà không một lời đính chính. Một nhân cách như thế thì tiếp tục ngồi lại để cung phụng đủ điều hay là rũ áo bỏ đi. Tấm gương Phạm Văn Xảo, Lê Sát, Lê Ngân và cả Nguyễn Trãi nữa không nói lên điều gì chăng? Mặc dù nhà Lê có công đưa chế độ phong kiến lên cực thịnh, lên đỉnh cao, điều đó ai cũng biết, nhưng có điều không ai có thể quên là Triều Lê là triều đại duy nhất trong các triều đại phong kiến nước ta chém giết các công thần ngay sau khi vừa giành được quyền bính. Đó là sự trớ trêu của lịch sử hay là vết nhơ của một triều đại?

Trở lại đời thường, Trần Nguyên Hãn trở lại cái chí lớn đã bị đứt đoạn vì phải trừ nạn ngoại xâm. Ông cho xây phủ to, đóng tàu lớn có đủ sức vượt sóng to gió cả đưa các sản vật của Sơn Đông, của Lập Thạch về Đông Quan, vào tận Thanh Hoá để bán cho khách hàng dưới xuôi, rồi lại mua các sản vật ở vùng xuôi lên bán lại cho bà con trong vùng. Như vậy là ông đã sớm nghĩ đến việc phá thế độc canh, đến sản xuất hàng hoá và tham gia vào thị trường cả nước. Con đường no ấm cho dân mở mang từ đó. Đó về mặt kinh tế. Còn về mặt chính trị là cả một ước vọng lớn lao. Đó là cải cách xã hội. Ông nhiều lần tự vấn, tại sao các triều đại lớn như Lý, Trần chống giặc phương Bắc lẫy lừng là thế mà khi đuổi được chúng ra khỏi bờ cõi mọi thứ đều nhất nhất phải học theo phương Bắc? Vậy thì cái chí hùng cứ, tự tôn dân tộc để mất đi đằng nào? Đến đời ta, ta có thể làm khác đi được không? Rồi ông tự trả lời, được chứ, sao không?

Mải mê suy nghĩ, theo đuổi cái lý tưởng mà ông tự vạch ra, ông quên mất là hơn một năm rồi ông chưa lai kinh gặp Lê Lợi như lời hẹn. Trong khi đó, bọn xiểm nịnh chưa buông tha ông. Chúng thay nhau thổi vào tai vua rằng ông đang gom quân, đóng tàu lớn, xây phủ điện để làm phản. Lê Lợi đã có lần gạt phăng những lời xiểm nịnh vu cáo đó đi, khi ông nói với Nguyễn Trãi: “Ông ấy dự định xây dựng trang Sơn Đông rộng ra là huyện Lập Thạch một kiểu cách lạ lắm ta chưa nghe ra. Không hiểu đã làm được đến đâu. Mà hiện giờ nhiều chuyện thất thiệt về ông Hãn quá. Thậm chí có tin báo về là ông ấy đang tích quân lương, đóng thuyền chiến, xây đệ phủ lớn định làm phản. Một số đại thần đòi ta cất quân hỏi tội ông ấy. Ta không tin điều đó. Ta hiểu ông Hãn chứ. Ông ấy có bụng dạ khác thì đã phản lâu rồi. Khi ông ấy làm Tư Đồ rồi Thái uý, nắm toàn bộ binh quyền trong tay, ông ấy phản lúc nào chẳng được. Nhưng triều đình hiện nay công thần lẫn tân quan bá nhân bá khẩu, khó lý giải ngọn nguồn. Ta không muốn mang tiếng vừa lên công nghiệp lớn, lại quay lại áp chế công thần. Dù điều đó rất dễ xảy ra bất cứ triều đại nào” (Trang 211, 212). Cũng trong cuộc trò chuyện ấy, Lê Lợi đã tỏ rõ thái độ về những cải cách xã hội của Trần Nguyên Hãn: “Ông Hãn đã nói với ta về việc lập ra các Hội đồng hương chính, hay Hội đồng chính pháp gì đó ở các lộ các trấn. Ta chưa nghe ra thế nào. Cái chữ “Hội đồng” với ta nghe nó lạ lẫm làm sao. Ông đọc nhiều, biết nhiều, dịp này cũng nên tìm hiểu và nói cho ta rõ. Ta mới đồng ý để ông ấy thử làm trên vùng Sơn Đông, nơi đất thang mộc của ông ấy. Nếu chưa đủ thì ông ấy với chức quan đầu triều, Tả tướng quốc ông ấy có thể mở rộng đến dân trong vùng, đất trong vùng. Nhưng không được vượt quá huyện Lập Thạch sang phủ huyện khác. Nói thế không phải ta áp chế ông Hãn mà ta thấy cái điều ông Hãn nói nó lạ quá, nó mới quá” (Trang 214, 215).

Như vậy là qua hai đoạn trích dẫn nói trên, ta có thể tóm tắt thành hai điều:

- Một là Lê Lợi không tin Trần Nguyên Hãn làm phản.

- Hai là Lê Lợi cho phép Trần Nguyên Hãn làm thử lập các Hội đồng hương chính trong phạm vi huyện Lập Thạch.

Từ kết luận đó, ta có thể khẳng định Lê Lợi sai Nguyễn Trãi về Sơn Đông để tìm hiểu, sai Trung thư lệnh Đổng tri viên Lê Văn Chữ làm đại sứ, mời Trần Nguyên Hãn về kinh để làm rõ công việc ông đang theo đuổi chứ không phải để trị tội. Do đó, khi Lê Văn Chữ lên đường, Vua chỉ cho mang theo hai vệ binh để bảo vệ dọc đường, cố tránh làm kinh động đến Trần Nguyên Hãn. Điều này trùng khít với nhận định của Trần Nguyên Hãn khi nhận hai lá thư của chim bồ câu gửi về và bà vợ ba Lê Thị Tuyển khuyên ông trốn đi. “Mình bảo lánh đi như vậy được sao. Đã lánh thì ta còn đâu lực lượng và trí tuệ thực hiện ý đồ của mình trên đất Đại Việt. Hơn nữa, trên đầu ta mang cái chức Tả tướng quốc, trốn tránh đâu có dễ. Càng đi xa, càng sang nước khác ta càng mang nặng tội phản chúa”.

Cuối cùng thì mọi việc đã được làm rõ giữa ban ngày. Trong cuộc gặp mặt với toàn thể các vị bô lão và bà con Trang Sơn Đông đến tiễn đưa ông lai kinh, lại có mặt quan Đại hành khiển Nguyễn Trãi và quan Trung thư lệnh Đổng tri viên Lê Văn Chữ chứng kiến, Trần Nguyên Hãn đã nói rõ bộ máy điều hành đất nước mà ông định lập ra như sau: “Triều đình ấy, bộ máy quản lý ấy sẽ có việc do Dân bầu ra các Hội đồng hương chính ở các làng xã, các Hội đồng ở các đạo, trấn, lộ, châu, huyện. Hội đồng đại diện cho Dân sẽ lập ra các quy ước ở làng, các quy định ở các tỉnh lộ, các luật lệ tầm quốc gia. Dân cũng sẽ bầu các Hội đồng chính pháp, ấy là các cơ quan thực thi, thi hành các quy ước, quy định luật lệ ấy. Dân cũng sẽ bầu chọn ra bộ máy các Hội đồng kiểm tra, giám sát các việc thực thi, xử lý những vi phạm quy định, luật lệ, xử án những vi phạm pháp luật. Như vậy chúng ta sẽ có một hệ thống các cơ quan khác nhau, độc lập với nhau, cùng khởi sự và điều hành đất nước. Ấy là các cơ quan nghĩ ra, lập ra các quy ước, quy định pháp luật, gọi nôm na là xây luật lệ. Một cơ quan thực hành các luật lệ ấy, điều hành các châu phủ, trấn lộ, làm việc theo luật và lệ do cơ quan thứ nhất xây nên. Cơ quan này có thể là chấp pháp hay chính pháp cũng được. Ba là cơ quan kiểm tra, giám sát các hoạt động của hai cơ quan trên, sai thì sửa, phạm thì xử. Gọi nôm na là tra giám. Từ trên cao nhất là quan tứ trụ triều đình, các thượng thư phụ trách các bộ, các quan ở các viên, các sảnh… Cho đến thấp nhất là trưởng làng đều do dân bầu nên. Giám sát lẫn nhau, cùng điều hành công việc. Lúc đó vua chỉ quan sát, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan do dân lập ra. Chỗ nào tốt thì khen, nơi nào chưa tốt thì điều chỉnh. Khi có sự bất đồng giữa các cơ quan, Vua sẽ đứng ra phân giải. Đi cùng với hệ thống thi cử, nhà Vua có thể giới thiệu kẻ đỗ đạt ra để dân thử thách, lựa chọn. Như vậy Vua sẽ không còn cai trị nữa mà Vua đứng ở vị trí cao hơn, đó là trị vì đất nước” (Trang 273, Trang 274).

Như vậy là, dù tên gọi có khác nhau, nhưng nội dung cải cách của Trần Nguyên Hãn giống hệt mô hình tam quyền phân lập của chủ nghĩa tư bản được thành lập sau cuộc cách mạng tư sản ở Pháp năm 1789. Trần Nguyên Hãn đã đi trước phương Tây ba thế kỷ. Thật là một trí tuệ phi thường. Một ý tưởng tiên phong như thế, táo bạo như thế, tiến bộ như thế thì ắt phải đụng chạm với cả một hệ thống quan lại là lẽ tất nhiên. Trần Nguyên Hãn tự chuốc lấy bao kẻ thù. Ông bênh dân, nhưng ai bênh ông? Ông vì nước nhưng ai vì ông? Nhưng ông quyết làm và tin rằng “Khó như việc đánh quân Nguyên Mông mà dân ta còn làm được thì việc gì mà dân ta không làm được?”.

Đây chính là chỗ khác giữa Đỗ Hàn với Nguyễn Anh Đào và Xuân Mai. Đó cũng chính là thông điệp, là tư tưởng bao trùm tác phẩm “Dòng Lô xanh thẳm” của Đỗ Hàn. Đây không còn là phục dựng lịch sử hay giải mã lịch sử mà chính là mượn lịch sử làm một chiếc đinh để treo lên đó bức tranh của mình như một nhà văn phương Tây đã nói. Đây là chỗ sáng tạo đặc biệt của Đỗ Hàn.

Một tư tưởng chủ đạo đã khác thì kết cục tác phẩm, số phận nhân vật sẽ phải khác. Từ điển Bách khoa Việt Nam và Từ điển các nhân vật lịch sử Việt Nam đều cho rằng Trần Nguyên Hãn bị bức tử nhảy xuống sông mà chết. Ai bức tử được một vị quan đầu triều với danh vị Tả tướng quốc, nếu không phải là Vua? Đỗ Hàn không để Trần Nguyên Hãn nhảy xuống sông tự tử, như vậy chẳng hoá ra tự nhận thấy mình có tội, phải lấy cái chết ra để đền tội hay sao? Làm như thế không phù hợp với tính cách của Trần Nguyên Hãn. Đỗ Hàn cho ông bị lũ hắc ám sát hại có vẻ hợp lý hơn. Lũ hắc ám ấy là tay chân của bọn quan lại, xiểm nịnh, xảo quyệt, tham lam tàn bạo, chúng sợ những cải cách của Trần Nguyên Hãn nếu được thực hiện thì mọi quyền lợi, địa vị, bổng lộc của chúng sẽ mất hết. Bốn chiếc thuyền lá tre áp sát chiếc thuyền lớn của Trần Nguyên Hãn khi vừa nhổ neo chính là lũ hắc ám của bọn tham quan ô lại cử đến. Chính Đỗ Hàn đã hé lộ cho ta cái kết cục bi thảm này qua những lời báo mộng của Lê Lai với Trần Nguyên Hãn từ ngày còn ở Lam Sơn. Trần Nguyên Hãn mất đi mang theo khát vọng nghìn đời của nhân dân ta về xã hội dân chủ, giàu mạnh và tự do. Nhưng còn lại là hình tượng hoành tráng của một vĩ nhân làm rạng danh cho non sông, đất nước ta, xứng đáng được tôn vinh như một trong những bậc anh hùng kiệt xuất của mọi thời đại.

----------

Hà Nội, ngày 2/5/2025

*Bài viết được đăng tải từ tập sách "Ám ảnh chữ" của nhà thơ Hữu Thỉnh

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Baovannghe.vn- Tôi về ấp Sơn Ton, xã Cù Lao Dung, thành phố Cần Thơ vào một ngày tháng tám, khi miền Tây vào giữa mùa mưa, mang theo những cơn giông bất chợt.
Làng không còn xanh bóng tre

Làng không còn xanh bóng tre

Baovannghe.vn - Trước hết, hãy thử dừng lại một chút để hiểu cho tường tận hai tiếng “làng”. Làng (thôn, bản, tổ dân phố) - không chỉ là một đơn vị cư trú đơn giản trên bản đồ.
Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Baovannghe.vn - Bộ GD&ĐT vừa có văn bản gửi một số sở GD&ĐT lấy ý kiến góp ý dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 29/2024/TT-BGDĐT ngày 30/12/2024 của Bộ trưởng Bộ GDĐT (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm.
Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Baovannghe.vn - Hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức (1975 – 2025), vào hai đêm 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm, Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức hòa nhạc mang tên Tấu khúc lưỡng cực – A Rhapsody of Two Worlds.
Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ