Sáng tác

Những buổi chiều tháng 7. Truyện ngắn của Vũ Minh Nguyệt

Vũ Minh Nguyệt
Truyện 06:00 | 20/07/2025
Baovannghe.vn - Những buổi chiều nóng nhất mùa hạ. Hầm hập, mặt đất bỏng rát, bầu trời cao, và nắng chói chang. Oi bức từ sáng sớm đến tối mịt.
aa

Chẳng có lấy một gợn gió nhỏ, hay một đám mây lạc loài nào. Suốt cả tháng liền cỏ cây héo quắt, đến cả những viên sỏi và cát dưới chân cũng bị nung lên. Con người, con vật đều khô nỏ cả ra. Bệnh viện lại mất điện vì quá tải. Tất cả quạt hơi, quạt gió, tủ lạnh, tủ đá đều chạy hết công suất. Mất điện là y rằng mất nước. Người ta dành nước dự trữ để nấu nướng. Không còn nước đâu để tắm táp, hạ bớt nhiệt cho bệnh nhân.

Chiều nào, mấy ông già thương binh cũng kéo nhau ra trước cửa khu căng tin của bệnh viện. Các ông không muốn uống nước, cũng chẳng muốn mua bán gì. Những khuôn mặt dúm dó, những đôi mắt đỏ ngầu nhìn ai cũng muốn cà khịa. Mấy đứa trẻ mặc áo thanh niên tình nguyện mang những hộp cháo phát miễn phí cho bệnh nhân nghèo, cũng bị các ông già quát nữa chứ. Khổ thật! Các ông cho rằng, chúng nó làm thế là xúc phạm, làm thế là bêu xấu bệnh viện quân đội. Các ông già cứ tưởng bệnh viện quân đội chỉ để chăm sóc và điều trị cho những người có liên quan đến lính tráng, hay những người đi qua cuộc chiến như các ông, oai hùng, ngẩng cao đầu; chứ sao lại phải nhận những hộp cháo bố thí làm gì? Vậy là giận dỗi, vậy là quát tháo, huyên náo cả một góc bệnh viện.

Chỉ có bác sỹ chuyên khoa thần kinh mới hiểu được tâm lý, bệnh tình những người thương binh này. Họ thường xuyên chống chọi với những cơn đau, trong lòng như lửa đốt, lại gặp thời tiết nóng hầm hập thế này là tinh thần bị kích động... Năm sau, rồi năm sau nữa, cứ mỗi dịp 27 tháng 7 nắng nóng, lại thấy thưa dần, ít dần người quay trở lại bệnh viện điều trị. Ốm đau, bệnh tật đã đưa họ về dần với tổ tiên, với cát bụi. Chiến tranh đã lùi xa quá rồi, mà có vẻ như chẳng còn ai muốn nhắc đến hai từ chiến tranh nữa. Chiến tranh chắc cũng không khổ bằng thời tiết khắc nghiệt. Chiến tranh cũng chả liên quan gì đến những ngày nắng nóng như thiêu đốt ở vùng ngoại ô thành phố này.

*

Tôi là cô giáo dạy văn ở trường trung học. Lúc rảnh rỗi, tôi giúp mẹ chồng bán mấy thứ lặt vặt ở cổng quân y viện. Khách hàng đa phần là những bệnh nhân mua bán mấy thứ đồ nhỏ nhặt. Người cau có, kẻ cò kè, nhiều khi bực mình hết nỗi, nhưng tôi đâu dám nặng nhẹ với ai như mấy ông già thương binh kia!

Tôi mang một túi cam đường, quả nào cũng căng mọng nước ra mời các ông ăn. Tôi đặt vào tay các ông những cái quạt giấy nhỏ. Một ông cao lòng khòng, cằm bên trái mất một góc, thành ra mặt mũi không còn bình thường nữa. Ông quay lại quắc mắt lên nhìn. Sợ quá, tôi nói thật rành rọt:

- Ngày trước bố cháu cũng là bộ đội.

Ông già cụt tay ngồi bên cạnh nói mát:

- Hư...ừ! Bố chị cấp tướng, cấp tá nên chị mới ăn trắng mặc trơn thế này?

Tôi xót xa đến nghẹn lòng bởi cái sự giận hờn của người già bị thương tật:

- Bố cháu cũng chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị mà.

Một ông cụt đến giữa đùi, cầm cái nạng gỗ, hỏi:

- Ôi giời! Có đau đớn như chúng tôi không?

Tôi gấp tờ báo cũ, quạt phe phẩy:

- Chắc bố cháu chẳng kịp đau đớn đâu ạ.

- Biết ngay mà, ông ấy chỉ ngó qua chiến trường. Sao mà nếm được mùi súng đạn?

- Bây giờ, bố cháu vẫn nằm dưới sông Thạch Hãn ấy...

Mấy ông già thương binh sửng sốt trố mắt nhìn tôi. Ông già mất một góc cằm trái lúc ấy mới cất giọng gió phào phào:

- Còn mẹ chị? Bây giờ mẹ của chị ở đâu?

Tôi chợt hiểu ra rằng, sự quan tâm đầu tiên của những người lính chiến dành cho nhau là... gia đình, vợ con. Bao đau thương mất mát và cả sự khó chịu trong nắng nóng hình như dịu hẳn lại. Tôi ngồi ở giữa những đồng đội của cha mình, bỗng dưng cảm thấy gần gũi, thân mật quá, dù chỉ mấy phút trước, họ làm cho tôi sợ hãi và xa cách.

- Mẹ cháu vào trong ấy mấy hôm rồi, năm nào vào dịp 27 tháng 7, mẹ cháu cũng vào Quảng Trị. Cũng có năm cháu được mẹ cho theo, nhưng từ ngày cháu lấy chồng bận rộn nên năm thì đi được năm thì không.

- Khổ thân! Chị ấy còn vào làm gì nữa? - Một ông nói nho nhỏ.

- Chẳng ai ngăn được đâu. Mẹ cháu bảo nếu không vào, bố cháu sẽ mong lắm - Tôi ngồi xích dần lại gần mấy ông già thương binh khó tính. - Các chú về phòng nghỉ đi. Trời mát rồi, mai các chú lại ra đây chơi với cháu nhé.

Các ông già lập cập đứng dậy, chậm rãi đi về phía trong khu điều trị. Lúc ấy, họ hiền lành như hạt lúa củ khoai. Tự nhiên, tôi thấy xót xa và thương họ vô cùng.

Tôi đã quen biết các ông già thương binh ấy như vậy.

Những buổi chiều tháng 7
Hình ảnh minh họa. Nguồn pinterest

Ông già thương binh mất một góc hàm trái ngồi nán lại. Ông nằm điều trị ở khoa ngoại, mặc quần áo bệnh nhân màu xanh da trời. Hai bên ống quần dài chùng xuống che kín cả bàn chân. Cái áo may ô màu trắng ngà không che được một bên lồng ngực bẹp dúm, nhưng ông già ý tứ vắt cái khăn mặt trên vai, giấu kín một bên xương đòn cong oằn ra phía trước. Mấy người lạ nhìn cái hàm trái bị mất một góc của ông như dòm ngó quái nhân dị tật. Mặc kệ ai quát tháo, hay xì xầm, ông già cứ ngồi im, đôi mắt lờ đờ nhìn tận đâu đâu. Ông cầm cái mảnh mo cau quạt phành phạch, chẳng nói chuyện với ai, chẳng hò hét, chửi bới ai, và ai hỏi cũng chẳng thèm trả lời.

Chỉ đến khi những ông bạn già về hết, nhà chờ thăm của bệnh viện lại tĩnh lặng, yên ắng, thì ông bắt đầu nói. Đầu tiên ông lẩm bẩm giọng phào phào một mình, rồi to dần, to dần. Mấy người nhà bệnh nhân thấy lạ lẫm lắng tai nghe, tôi cũng giỏng tai nghe và cảm thấy thân thiện. Ông già nói toàn những chuyện ngày xửa ngày xưa có vẻ chả liên quan đến bầu không khí đang nung nóng cỏ cây hoa trái ở đây.

Tôi đóng cửa, thu dọn hàng quán, ngồi bên cạnh ông. Có một sợi dây vô hình nào khiến tôi cảm thấy thật gần gũi với một ông già cô đơn tật nguyền, bị chứng trầm cảm, đang cố gồng người trở lại thời trai trẻ đã đi qua. Tôi gọi ông là chú, thân mật và gần gũi.

Sâm sẩm tối. Những người nhà đi chăm người ốm tranh thủ kiếm chỗ giải cái chiếu trong nhà chờ thăm bệnh nhân, cũng chạnh chọe, tranh giành mấy phút rồi đâu lại vào đấy. Ai cũng có một chỗ đủ để mắc cái màn để ngủ vạ vật qua đêm. Họ để cái ba lô, cái túi xách sang một bên rồi quay ra góp chuyện với nhau. Ông già quay sang nói chuyện với tôi. Cái hàm dưới khuyết một góc bên trái mỗi khi há ra thì miệng lại hở sâu như cái hố tối om.

“Chị người thành phố chả biết được đâu? Muốn đến quê chú xa lắm, tít sau dãy núi kia kìa”.

Ông già nói, rồi chỉ tay về hướng mặt trời đỏ ối như quả cầu lửa đang lặn, chìm dần sau dãy núi mờ mờ. Giọng nói của ông rặn rộ phào phào nặng trình trịch, ẩn mất dấu huyền.

“Quê tôi ở đấy, các ông bà thấy chưa? Phía dưới ấy là thung lũng, thỉnh thoảng vớ được vũng nước, cắm cây lúa là tốt bời bời, cá cua có mà vô khối, tuyền cá rô, cá diếc, chạy lên đồi rút nắm lá chua me, rồi kho cháy, gớm giờ thì chả còn nữa...”

Tôi vẫn chăm chú nghe, chỉ sợ hỏi ngang sẽ cắt đứt luồng suy nghĩ của ông già. Tôi bắt gặp đôi mắt lờ đờ của ông nhìn về phía xa xa tiếc nuối một điều gì đó không cắt nghĩa nổi. Tôi chưa một lần được thưởng thức món cá diếc kho lá chua me, nhưng nghe ông già tả mà thấy thèm và cuốn hút quá.

“Ây, cái giống cá chuối, cá sộp khôn đáo để, lẩn xuống đám thung năn, thung lác sinh đẻ ở đấy, có con dễ đến cả yến. Tết đến chả có tiền mua thịt nhưng cá thì đầy, nhà nào cũng kho, cũng luộc, đêm ba mươi, cả làng đốt rơm um cá, ăn hết giêng cũng còn khối. Ngày trước chú đốt cả một quả đồi, tro than gì cũng mặc kệ, mưa xuân xuống, những lớp đất xốp lên, tơi bở ra. Chè tốt rậm kín cả vùng. Ngày chưa đi lính ấy à, chú hái được khối các loại hoa lá ở rừng, quẩy cả gánh rau sắng về Hà Đông bán. Người kẻ chợ nấu với thịt nạc, ngọt lắm...”

Tôi nói chen vào và cốt để ông có thời gian ngừng lại, được nghỉ ngơi cho đỡ mệt:

“Chú làm cháu thèm quá. Bây giờ họ vẫn bán mà chú, nay mai khỏi bệnh, đến mùa rau sắng, chú mang ra, cháu bán giúp nhé”.

Ông già dường như không nghe tôi nói, giọng cứ đều đều phào phào, xa xăm:

“Mùa không có rau sắng thì gánh củi, cả chè xanh, cả lá thuốc bắc. Vậy mà bây giờ, đến cái lá cũng tiệt. Tài thật, chim muông thú dữ cũng biến sạch...”.

Ông già lại chỉ tay về cái nơi hoàng hôn đang sậm dần lại. Phía chân trời xa xa, những tia nắng cuối cùng cũng lặng lẽ lịm đi, rồi tắt hẳn.

Tôi có nghe mẹ kể những ngày chiến tranh và tôi cũng không lạ gì đất và người quê hương ông, một vùng bán sơn địa. Ở đấy có những khu đất cao vói lên, người ta chăn nuôi trâu bò nhiều vô kể. Lạ lùng, nếu trâu trắng ở quê ông là phổ biến thì ở vùng khác, trâu màu trắng là hiện tượng lạ, bò thì da đen như da trâu. Họ chăn thả từng đàn trên sườn đồi. Chỉ những chỗ trũng nhất mới trồng được lúa, nhưng vất vả lắm, cây lúa mới ra bông được, hình như nơi ấy hợp nhất với cây sắn, mà ăn sao được sắn quanh năm. Người dân trong vùng vẫn trồng rồi chở ra chợ đồng bằng bán làm của ăn chơi quà vặt. Vất vả thiếu thốn chứ đâu được an nhiên, thơ thới như ông kể.

Ngồi nói lảm nhảm giọng gió phào phào kể lại chuyện quê hương từ cái thuở nảo, thuở nào, mà ông già cứ say sưa như vừa xảy ra. Tôi hẹn với ông: “Tối rồi, chú về khoa nghỉ ngơi đi. Mai chú lại ra đây cho mát ạ”. Ông đứng dậy, chào tôi rồi cắp cái mo cau tập tễnh bước đi. Tôi biết dù không hẹn, ngày mai ông vẫn lại ra và lại bắt đầu câu chuyện làng quê trước sau, xa gần lộn xộn...

Bóng ông già nhập nhoàng dưới những cây xà cừ cổ thụ, khăn mặt màu cháo lòng vắt trên vai. Ông đi về khu điều trị thương binh khoa ngoại.

Chiều tối hôm sau, ông già thương binh mất một góc hàm trái lại ra quán hàng của tôi. Ông không ngồi lẩm bẩm nói phào phào một mình nữa. Tôi xếp gọn gàng mấy thứ tạp hóa lặt vặt lại. Thời tiết này, chỉ những thứ nước giải khát mát mẻ là đắt hàng, còn mấy thứ kim chỉ vá may, đồ chơi cho trẻ con hay những quyển sách bìa dày cộp thì ai mà thèm đụng đến thành ra hàng của tôi ế ẩm quá chừng. Có hôm tôi đóng quán, đi lang thang lòng vòng ở bệnh viện. Tôi thường bị ám ảnh bởi những chiếc nạng gỗ chống lọc cọc xuống con đường xi măng trơ trọi trong bệnh viện, hoặc là những ống tay áo vắt lủng lẳng sau vai của một người nào đó bởi một cánh tay đã gửi lại nơi chiến trường.

Tôi chỉ được biết mặt cha qua tấm hình đặt dưới cái bằng “Tổ quốc ghi công”. Bà nội tôi kể lại rằng: Một chiều cuối năm, cha tôi tạt qua nhà. Lúc ấy mẹ tôi đang tất bật gói bánh chưng ở cửa hàng thực phẩm, biết tin chồng về, mẹ tôi vội vàng để thịt mỡ, đậu xanh, lá dong, gạo nếp lại, cuống cuồng đạp xe về nhà...

Bà tôi khẽ khàng đóng cửa, và ngồi xây lưng lại như người gác ở bên ngoài. Ai hỏi mẹ tôi, bà cũng bảo chưa về nhà. Khi bóng tối sập xuống, tiếng còi tàu hú vang ngoài ga Hàng Cỏ, cha tôi khoác vội cái ba lô, cậy cửa nhào ra ôm chặt lấy bà. Bà tôi ôm lấy con trai, nước mắt chảy dài. Mẹ lại cuống cuồng chở cha tôi ra ga, sau lưng là bà tôi ngồi thụp xuống thềm âm thầm khóc. Chỉ đến khi con tàu lẫn vào màn đêm, mẹ tôi mới lau nước mắt rồi vội quay lại cửa hàng. Đàn chuột cống đã nhanh chân xơi sạch cả mấy tô thịt gói bánh. Năm ấy, bánh chưng của cửa hàng không có nhân thịt lợn.

Tôi ra đời vào một chiều cuối thu nắng vàng rực rỡ. Cha tôi mãi mãi ở lại chiến trường, dù mẹ héo mòn chờ đợi cha tôi về, để khoe con gái...

Tôi kể tiếp với ông già mất một góc hàm trái về chuyện mẹ tôi, bao năm rồi, mẹ luôn luôn sống bằng ký ức. Năm nào làm giỗ cha tôi xong, mẹ lại vào Quảng Trị. Lần nào mẹ cũng ôm một bó hoa hồng từ Hà Nội vào để thả xuống dòng sông, nơi cha tôi đã hy sinh. Mẹ ngồi hết chiều trên bờ sông Thạch Hãn, một mình lầm rầm nói chuyện với người âm. Lần nào trước khi ra về mẹ cũng nói với cha: “Sang năm. . . cuối tháng 7. . . em lại vào”.

Nghe tôi kể, ông già thương binh thở dài đến não ruột.

*

Những ngày cuối tháng bảy năm nào Quân Y viện cũng đông đúc hơn thường lệ. Bệnh nhân là những người thương binh từ các trại điều dưỡng, từ các vùng quê lũ lượt về khám và điều trị. Cũng là một cơ hội gặp gỡ nhau, ôn lại những tháng ngày trận mạc. Nằm điều trị cùng nhau nhiều lần, quen thân nhau đến nỗi thuộc làu làu quê quán và đơn vị thời chiến tranh, đánh ở chiến trường nào, thương tật ra sao. Tất nhiên, mỗi lần gặp lại, họ biết thêm về nhau nhiều điều mới mẻ trong cuộc sống đời thường: chuyện đứa cháu nội mới chào đời, con bò cái mắn đẻ, bà vợ già hay đi đái đêm..., trên trời dưới biển đủ thứ chuyện.

Tháng bảy năm nay, tiết trời dịu hơn mọi năm trước, nhưng bệnh viện cũng vắng vẻ đi nhiều. Những người khó tính cứ ít dần đi, nhóm hút thuốc lào của năm trước chỉ còn lại ba người. Cứ thấp thoáng xa gần từng khuôn mặt, từng giọng nói, từng vùng quê của họ... ám ảnh trong trí nhớ của tôi.

Ông già thương binh hàm trái mất một góc ấy lại về nằm viện. Ông xách ra cho tôi cân bột sắn, một gói lá kim tiền thảo và chục trứng gà. Ông khoe: “Cái đèn pin chị cho, chú dùng vẫn tốt lắm”. Ông bảo, chú không ốm đau gì cả. Chú về bệnh viện để gặp gỡ anh em bạn bè thôi. Ngày trước đơn vị chú cũng đánh Quảng Trị. Ác liệt lắm, mình còn lê được tấm thân về đây là lãi rồi, tốt phúc lắm rồi, đòi hỏi làm gì, ầm ĩ mà làm gì.

Trước khi đổi quần áo bệnh nhân, ông già thương binh mặc quân phục thẳng lý, ngực đeo đầy huân huy chương. Lần đầu tiên tôi thấy ông vui vẻ, hoạt bát. Tôi lặng lẽ ngắm nhìn người lính già trang nghiêm trước mặt. Ở cửa phòng khám bệnh, ông nhanh nhẹn đi bắt tay từng người, kể cả quen hay không quen, có lẽ với ông, cứ vào đến bệnh viện quân đội đều là thân thiết, đều là đồng chí.

Tôi không nghĩ đây là lần cuối cùng ông già đến bệnh viện, bởi kết quả xét nghiệm rất bi quan, ông bị ung thư dạ dày đã di căn lên phổi. Tội nghiệp ông già, những cơn đau bụng âm ỉ xuất hiện từ sau tết. Cơn đau thường lẫn lộn với cái nhức nhối của vết thương cũ, với ông thì đau gì cũng là trái gió trở trời nên nó hành hạ. Đau chán, nhức nhối vài ngày rồi cũng xong. Lạ kỳ! Ông cứ một mực nghĩ: đến bệnh viện là chỉ để gặp gỡ đồng đội trong những ngày cuối tháng 7 chứ hoàn toàn không phải bệnh tật...

Con gái út của ông nói với tôi rằng, thôi thì để ông vui vẻ những ngày cuối cuộc đời. Chị đã nhờ người giả cái giấy xét nghiệm ghi “viêm dạ dày mãn... “ rồi đưa cho ông xem. Chị nói với cha rằng, chứng viêm dạ dày ai chả bị, bố cứ điều trị qua tháng bảy, nếu không khỏi thì về quê. Chúng con đưa cha đến gặp bà lang núi kiếm ít lá thuốc sắc đặc, uống là khỏi ngay. Ông nghe xong, cố mỉm cười.

Chiều bệnh viện oi nồng hơn nơi khác. Tôi vào thăm, ông đang truyền nước. Đôi mắt hấp háy, không mở to ra được, những ngón tay khẽ động đậy, muốn giơ ra cũng chẳng được nữa rồi. Tôi hỏi han ông vài ba câu cốt để khỏa lấp nỗi lo âu:

“Ngày 27 tháng 7 năm nay, chú có lên nhận hoa bệnh viện tặng nữa không ạ?”

Chẳng hiểu sao, ông lại lảng đi chuyện khác. Da mặt nhăn nheo, xạm lại, ông vẫn cố cười, bảo:

“Chú năm nay 73, sang năm 74 tuổi. Qua năm tuổi chú sẽ khỏi bệnh”.

Tôi lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh ông, nắm lấy bàn tay khô khẳng, lạnh giá của ông, khẽ gọi: “Chú ơi!”. Miệng ông mấp máy, nhưng hơi thở của ông gấp gấp, rồi nghẹn lại. Tôi cúi xuống, giọng sẽ sàng lại nói với ông câu chuyện mà ông đã nghe nhiều lần: “mẹ cháu vào Quảng Trị mới về chú ạ...”.

Tôi thấy ông khẽ gật đầu, lại mỉm cười.

Rồi nụ cười chợt tắt, nhưng gương mặt vẫn rạng rỡ. Có lẽ ông đang nghĩ đến đàn bò đen, lũ trâu trắng no tròn đủng đỉnh trên con đường cát, bụi mù của những buổi chiều mặt trời xuống núi.

Văn nghệ, số 18+19/2014
Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Baovannghe.vn- Tôi về ấp Sơn Ton, xã Cù Lao Dung, thành phố Cần Thơ vào một ngày tháng tám, khi miền Tây vào giữa mùa mưa, mang theo những cơn giông bất chợt.
Làng không còn xanh bóng tre

Làng không còn xanh bóng tre

Baovannghe.vn - Trước hết, hãy thử dừng lại một chút để hiểu cho tường tận hai tiếng “làng”. Làng (thôn, bản, tổ dân phố) - không chỉ là một đơn vị cư trú đơn giản trên bản đồ.
Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Baovannghe.vn - Bộ GD&ĐT vừa có văn bản gửi một số sở GD&ĐT lấy ý kiến góp ý dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 29/2024/TT-BGDĐT ngày 30/12/2024 của Bộ trưởng Bộ GDĐT (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm.
Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Baovannghe.vn - Hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức (1975 – 2025), vào hai đêm 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm, Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức hòa nhạc mang tên Tấu khúc lưỡng cực – A Rhapsody of Two Worlds.
Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ