Sáng ngày 23 tháng 10 năm 2025, nhà văn Đỗ Kim Cuông đã trút hơi thở cuối cùng tại Hà Nội. Tin ông qua đời được Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều thông báo, gây xúc động sâu sắc trong giới văn nghệ sĩ và đông đảo bạn đọc.
|
Đỗ Kim Cuông sinh ngày 25 tháng 4 năm 1951 tại Thái Bình. Năm 17 tuổi, theo tiếng gọi của Tổ quốc, chàng trai trẻ ấy lên đường nhập ngũ, bước vào cuộc chiến đấu suốt 9 năm liền gắn bó với chiến trường Trị Thiên - Huế gian khổ và ác liệt. Ông từng tham gia chiến dịch Xuân 1968, Xuân 1972 và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.
Năm tháng chiến trận đã in hằn trong tâm trí ông những ký ức không thể nào quên. Trong ký ức ấy còn ám ảnh những “chiếc nồi bị đâm thủng, những chiếc bếp Hoàng Cầm, căn hầm chữ A sụt lở...”, và đau đớn hơn cả là “những nấm mộ không bia bảng ghi tên liệt sĩ; cũng có khi là mảnh xương khô...” Một kỷ niệm chiến trường in đậm trong ông là lần gặp Trung đoàn trưởng Thân Trọng Một và nhạc sĩ Trần Hoàn trên đường công tác. Khi thấy những người lính đơn vị KX phải nhặt ít gạo sấy của lính Sài Gòn vứt lại để nấu ăn, vị Trung đoàn trưởng đã xúc động khóc: “Để lính đói như ri là lỗi của qua, của qua, các em ạ!” Sự quan tâm của người chỉ huy và hình ảnh người nhạc sĩ mang theo cây đàn guitar giữa rừng sâu đã trở thành biểu tượng đẹp về tình đồng đội, về sức mạnh tinh thần trong những năm tháng khốc liệt nhất. Chính những trải nghiệm sinh tử ấy đã trở thành ngọn lửa âm ỉ cháy trong lòng, thôi thúc Đỗ Kim Cuông cầm bút. Ông viết như để tưởng nhớ đồng đội, như để lưu giữ lịch sử những năm tháng hào hùng mà gian nan, cay cực.
Sau chiến tranh, năm 1976, Đỗ Kim Cuông chuyển ngũ, theo học Khoa Văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Ra trường, ông về công tác tại Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang, Phú Khánh (nay là Khánh Hòa), trở thành giảng viên Khoa Ngữ văn. Những năm tháng ở Nha Trang, nhà giáo Đỗ Kim Cuông còn tích cực tham gia hoạt động văn nghệ địa phương. Bạn bè cùng thời nhớ về ông như một con người đa tài. Đằng sau vẻ ngoài “lù khù” là một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế. Trong ký ức của Trương Nguyên Việt là hình ảnh một đêm trăng, Cuông trải chiếu trước hiên nhà, pha ấm trà, và đọc những câu ca dao dân gian mà anh sưu tầm được dọc hai bờ sông Hiền Lương bằng chất giọng “ngai ngái” mà “hay đến sởn da gà”. Từ môi trường sư phạm và hoạt động văn nghệ địa phương, Đỗ Kim Cuông dần khẳng định vị trí của mình. Ông từng giữ các chức vụ: Bí thư Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa, Tổng biên tập Tạp chí Nha Trang.
Vào những năm 90 của thế kỷ trước, ông chuyển ra Hà Nội, về công tác tại Ban Tuyên giáo Trung ương, trên cương vị Vụ trưởng Vụ Văn hóa - Văn nghệ. Ở vị trí này, ông được biết đến như một “ông quan văn nghệ” hiền lành, dễ gần. Xuất thân từ hội văn nghệ địa phương nên ông hiểu rất rõ thực tế hoạt động của các hội cơ sở. Ông đã tham mưu các chính sách thiết thực để lãnh đạo Ban có những quyết sách phù hợp trong quản lý, đầu tư cho các hội văn học, nghệ thuật địa phương.
Sau khi nghỉ hưu, ông vẫn tiếp tục tham gia Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, được bầu làm Phó Chủ tịch thường trực. Ông còn là Ủy viên thường trực Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương.
Trong gần bốn thập niên cầm bút, Đỗ Kim Cuông để lại một di sản văn chương gồm 14 bộ tiểu thuyết và 7 tập truyện ngắn, phần lớn viết về chiến tranh và đời lính chiến trường, cụ thể là mặt trận Trị Thiên - Huế. Các tác phẩm tiêu biểu của ông đã trở thành những cái tên quen thuộc với bạn đọc: Người đàn bà đi trong mưa (1987), Nửa vành trăng khuyết, Một nửa đại đội (1988), Hai người còn lại (1989), Thung lũng tử thần (1990), Miền hoang dã (1991), Vùng trời ảo mộng (1993), Chuyện tình ở biển, Mảnh sân sau u ám (1993), Tự thú của người gác rừng (1996), Giáp ranh (1996), Cát trắng (1997), Đêm ngâu (1999), Người dị hình (2000), Thủ lĩnh vùng sông Tô (2001)...
Nếu chỉ gặp ngoài đời, nhiều người sẽ thấy ở Đỗ Kim Cuông một con người điềm đạm, hiền lành, gần như lặng lẽ trước những ồn ào của thế giới. Nhưng trong trang viết, ông là một “người lính” đúng nghĩa - người lính trong chiến tranh và người lính giữa thời bình. Trong từng tác phẩm, ông luôn đặt con người giữa những thử thách khốc liệt của chiến tranh, của thân phận và của lòng người. Ở đó, vẫn le lói niềm tin vào sự tử tế, vào tình yêu, vào bản năng hướng thiện dù cuộc sống nhiều khi nghiệt ngã.
Ngòi bút tận hiến của Đỗ Kim Cuông đã được ghi nhận qua nhiều giải thưởng giá trị: Giải A cuộc thi sáng tác văn học do Quân chủng Hải quân, Bộ Quốc phòng tổ chức năm 1995; Giải A cuộc thi truyện vừa do Hội Nhà văn Việt Nam và Tạp chí Tác phẩm mới tổ chức năm 1998; Giải “Cây bút vàng” năm 1998.
Không chỉ sáng tác, Đỗ Kim Cuông còn là một nhà văn luôn trăn trở về các vấn đề xã hội, đặc biệt là sự xuống cấp của đạo đức. Trong một cuộc trò chuyện với Chuyên đề An ninh thế giới Cuối tháng năm 2014, ông đã thẳng thắn chia sẻ những quan ngại sâu sắc. Ông ví đạo đức xã hội trong 100 năm qua như “một biểu đồ nhiều đường hình sin, khúc khuỷu” và ở thời điểm hiện tại “đang xuống thấp”. Với tư cách một nhà quản lý văn hóa và một nhà văn, ông chỉ ra rằng trong thời chiến, “cái xấu lúc đó bị lấp đi bởi hào khí của dân tộc”, nhưng khi đất nước bước vào thời bình, “chúng ta lại phải đương đầu với những cái xấu không tưởng tượng được”. Đặc biệt, ông nhận định về ba “ngôi nhà” nền tảng của xã hội - gia đình, nhà trường và nhà chùa - đều “đang bị nhiễm độc”. Trước thực trạng đó, ông xác quyết: “Nhà văn không thể dửng dưng với hiện trạng của đời sống xã hội và không thể không xúc cảm trước hiện trạng đời sống xã hội chúng ta đang trải qua, đang là chứng nhân của những gì đang diễn ra.”
Dù ở cương vị nào - người lính, nhà giáo, nhà văn hay nhà quản lý - Đỗ Kim Cuông luôn được nhớ đến như một con người hiền lành, chân thành và khiêm nhường. Bạn bè, đồng nghiệp đều có chung nhận xét về một Đỗ Kim Cuông “không có gì khác biệt, hòa đồng” dù ở cương vị “quan văn nghệ”. Nhà thơ, nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát nhớ về ông “như nhớ một người hiền lành, tử tế”. Kỷ niệm về ông còn in đậm trong lòng nhiều người, từ những người bạn thân thiết như nhà văn Trương Nguyên Việt cho đến những người từng sống gần ông như nguyên Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng. Vị nguyên ủy viên Bộ Chính trị này từng kể: “Cuông nó là nhà văn mà cũng như tôi gốc nông dân, chân thành, mộc mạc lắm. Hồi đó nó chưa viết nhiều sách, có quyển nào lại tặng tôi cuốn ấy, đọc cả đêm mà chẳng muốn dừng...” Đến cả con gái một vị Trung tướng, nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân, từng là thủ trưởng cao cấp của anh hạ sĩ Đỗ Kim Cuông ngày nào, cũng nằng nặc nhờ người quen tổ chức một bữa cơm thân mật chỉ để được gặp nhà văn mình yêu thích. Bởi vị tướng ấy rất yêu những cuốn tiểu thuyết, những tập truyện ngắn do người lính của mình viết về chiến trường những năm tháng ấy, và thường tìm mua về cho cả nhà cùng đọc.
Nhà văn Đỗ Kim Cuông ra đi ở tuổi 74, để lại niềm tiếc thương vô hạn trong lòng đồng nghiệp và bạn đọc. Nhưng như lời của nhà văn Trương Nguyên Việt: “Với nhà văn, người lính Đỗ Kim Cuông, ngọn lửa ấy không chỉ soi sáng những năm tháng đã qua, mà còn tiếp sức cho anh, đồng đội và bạn đọc thế hệ của anh, cũng như các thế hệ sau này, những mạch nguồn yêu thương và tự hào trong những chặng đường tới!”
Ông đã về với Đất Mẹ, nhưng những “nửa vầng trăng khuyết”, những “người gác rừng”, “người dị hình”, “mảnh sân sau u ám”... vẫn sẽ còn ở lại - như chứng nhân cho một thời và một nhân cách cầm bút. Trong tim những người ở lại, ông vẫn sống mãi cùng những trang văn thấm đẫm tình người, tình đời và khát vọng hướng thiện.
Vĩnh biệt nhà văn Đỗ Kim Cuông - người lính của chữ nghĩa, người đã sống trọn vẹn với chữ, với người, với đất nước.