Diễn đàn lý luận

Một vài hiện tượng trong văn học Việt Nam hôm nay

Lê Hoài Nam
Lý luận phê bình 10:45 | 15/10/2025
Baovannghe.vn - ...Hiện nay, công chúng rất khó nhận diện và tìm đọc một tác phẩm văn học hay theo đúng nghĩa. Cái hay của văn chương hôm nay đang bị một số người làm nhiễu loạn...
aa

Trong năm 2025, năm chẵn kỷ niệm những ngày lễ lớn: 50 năm ngày giải phóng miền Nam, 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2 tháng 9, vì thế mà đã có khá nhiều nơi tổ chức hội thảo với tiêu đề “Văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay”. Ngoài các cơ quan văn học nghệ thuật ở trung ương, quân đội, thì các hội văn học nghệ thuật địa phương cũng tổ chức hội thảo theo chủ đề này. Các hội thảo đã diễn ra với rất nhiều tham luận, trong đó có những tham luận được viết từ các chuyên gia văn học có uy tín, sau khi trình bày trong hội thảo còn được đăng trên các báo chí và các phương tiện truyền thông nữa.

Tôi đã đọc kỷ yếu của vài ba cuộc hội thảo, nói chung, các tham luận thường được phân chia như sau: “Từ 1975 đến 1985 là thời kỳ chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến; từ 1986 đến đầu thập kỷ 90 là thời kỳ đổi mới văn học, đây là giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay của xã hội. Bối cảnh đó đã thúc đẩy sự thức tỉnh ý thức cá nhân, đòi hỏi sự quan tâm đến mỗi người và từng số phận. Từ 1993 đến nay, văn học trở lại với những quy luật bình thường, văn học quan tâm nhiều hơn đến sự đổi mới của chính nó, nghĩa là nó trở về với đời sống thường nhật và vĩnh hằng, đồng thời có ý thức và nhu cầu tự đổi mới về hình thức nghệ thuật, phương thức thể hiện.

Một vài hiện tượng trong văn học Việt Nam hôm nay
Nhà văn Lê Hoài Nam

Nhưng trong một cuộc hội thảo về văn học cách đây chưa lâu, tôi chưa thật đồng tình với một vài tham luận nhận định: Văn học chống Mỹ nói chung là văn học sử thi, mang giá trị tuyên truyền, động viên những người cầm súng ra trận. Họ không bàn gì đến giá trị nhân văn của dòng văn học này. Theo tôi, văn học mà động viên những người chiến sĩ ra trận, không sợ hy sinh cả mạng sống, góp phần mang lại nền hoà bình cho cả một đất nước, một dân tộc, thì dòng văn chương ấy có giá trị nhân văn lớn. cần phải góp mặt trang trọng trong bộ tổng tập văn học sử thiên niên kỷ của quốc gia chứ không thể khác.

Trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bên cạnh bài thơ “cổ vũ” của Lý Thường Kiệt đánh quân Tống, thì trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông cũng xuất hiện những bài thơ “cổ vũ, tuyên truyền” như thế của Trần Hưng Đạo, Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão… trong 10 năm kháng chiến chống giặc Minh của quân dân triều Lê, cũng có những bài thơ “cổ vũ, truyên truyền” của Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông…

Để chiến thắng quân xâm lược, bên cạnh gươm đao, võ nghệ, không thể không tính công cho những tác phẩm văn học mạnh mẽ, vang xa như sấm truyền, lay thức tâm hồn cả một dân tộc, khiến quân xâm lược phải khiếp sợ, không còn ý chí chiến đấu. Văn học chống Mỹ cứu nước, không thiếu những tác phẩm văn chương như thế, từ những bài thơ chúc tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến những bài thơ của Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật… là những thí dụ. Trong khi nó góp phần rất lớn để cứu sống một dân tộc thì giá trị nhân văn không thể coi là nhỏ. Thế mà trong khoảng vài chục năm gần đây những tác tác phẩm như thế cứ bị loại dần ra khỏi sách giáo khoa trung học phổ thộng là vì sao nhỉ?

Kể từ Đại hội VI của Đảng cùng với Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, sau đó là cuộc gặp của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987 giống như một luồng gió tươi mới thổi vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra thời kỳ đổi mới và khát vọng dân chủ của văn học Việt Nam: đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật, nhận thức lại hiện thực. Nhờ đó mà khá nhiều tác phẩm ra đời vào thơi kỳ này được đông đảo bạn đọc đón nhận và gây được tiếng vang như: một số tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Nguyễn Quang Sáng, Sơn Nam, Nguyễn Mạnh Tuấn…

Tuy nhiên, để khẳng định tinh thần dân chủ trong sáng tạo nghệ thuật và thúc đẩy những tìm tòi đổi mới của văn học, chúng ta đã chấp nhận một số những tác phẩm khai thác những khác biệt, dị biệt, và trước đó đã chấp nhận những khuynh hướng, trường phái văn học “Hậu hiện đại’ từ phương Tây du nhập sáng như văn học hiện sinh, văn học phi lý, tiểu thuyết dòng ý thức, sau nữa là văn học Việt Nam ở hải ngoại tràn vào, góp phẩn mở rnang, làm phong phú thêm cho văn học trong nước.

Nhớ thuở còn học phổ thông, tôi bắt đầu tập tọng viết văn, có lần cha tôi cầm tập “bản thảo” của tôi xem thử tôi viết thế nào. Rồi ông bảo tôi: Con muốn trở thành một nhà văn theo đúng nghĩa thì điều đầu tiên hãy tự răn mình bằng câu này của cổ nhân “Văn chương thiên cổ sự”, nghĩa là văn chương là chuyện cho muôn đời chứ không phải chuyện của một ngày hay một vài chục năm. Và ông nói câu này nữa: “Văn chương bất tác khinh bạc ngữ”, nghĩa là văn chương mà chỉ viết những điều rẻ rúng, khinh bạc con người thì bất thành tác phẩm. Cha tôi diễn giải thêm: Có thể trong một tác phẩm có những nhân vất đáng khinh, nhưng cảm hứng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm là thái độ trân quý, nâng đỡ con người, vì con người mới là cao quý nhất trong tất cả mọi sự.

Sau này tôi có đọc một số tác phẩm lớn của thế văn chương giới như: “Đôn Ki-hô-tê” của văn hào Miguel De Cervantes. Tác phẩm viết về một nhân vật hoang tưởng Đôn Ki-hô-tê nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, dùng gươm giáo chiến đấu với cả chiếc cối xay gió mà ông cho là con quái vật khổng lồ. Nhiều trường đoạn văn hào viết bằng giọng hài hước, nhưng ẩn sau những câu chữ là niềm cảm thương con người không thật tính người, không được sống một kiếp người bình thường kia. Tôi đọc Dostoevsky, văn hào được coi là “thiên tài viết về cái ác”; với các tiểu thuyết “Tội ác và trừng phạt”, “Lũ người quỷ ám”, “Anh em nhà Karamazov”… đúng là cái ác có lúc làm tôi muốn nghẹt thở, nhưng tôi chỉ thấy ẩn sau những trang văn dữ dội ấy là một lòng thương, một lời kêu gọi hãy cứu vớt con người.

Bởi vậy khi bước vào giai đoạn đổi mới văn học, xuất hiện một số tác phẩm xuyên tạc về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mô tả con người Việt Nam bằng giọng khinh miệt như mô tả súc vật, nhưng lại được một số nhà văn, nhà phê bình ca ngợi, tung hô; khi viết bài hay giảng dạy cho học sinh, sinh viên họ nhồi nhét vào những cái đầu trong trắng của các em để các em coi những nhà văn “lạc loài” kia là những thần tượng. Một trong những nguyên nhân khiến các em thất vọng, phai nhật tình yêu văn học là vì thế.

Những năm gần đây, nhờ sự cởi mở của thể chế, văn học Việt Nam đã xuất hiện những tiểu thuyết viết về Phật giáo, Thiên Chúa giáo; viết chân thực như nó vốn có, thế mà khi viết tham luận trình bày trong một hội thảo về văn học Việt Nam gần đây có một nhà phê bình đã nhận định rằng mảng văn học “nhạy cảm” này chỉ có thể xuất hiện ở hải ngoại. Ông ta đã “cất công” soi tìm tác phẩm của một nữ tác giả Việt kiều sống ở bên kia bờ đại dương để trích dẫn mấy câu thơ nhạt nhẽo, “chưa sạch nước cản” làm dẫn chứng, ca ngợi, tôn vinh. Vô duyên đến thế là cùng! Không hiểu nữ sĩ xa lạ ấy gửi trả công lăng xê cho ông ta được bao nhiêu đô la?

Người bạn thân của tôi, nhà văn Nguyễn Trọng Tân, hồi còn trẻ thì đi chiến trường, sau ngày thống nhất đất nước chuyển ngành, lại sang Căm pu chia làm cố vấn về giáo dục; hết đợt công tác trở lại Hà Nội bận việc quản lý, làm báo, làm tạp chí; khi nghỉ hưu mới thực sự dấn thân cho văn chương. Trong khoảng hơn 10 năm anh sáng tác 6 cuốn tiểu thuyết, ít nhất trong số ấy có 2 cuốn rất đáng đọc. Một người bạn gợi ý cho anh nên gửi một cuốn dự giải thưởng hàng năm của một hội đoàn thủ đô Hà Nội, anh nghe theo, gửi cuốn “Thiên mệnh” tham dư. Đây là cuốn tiểu thuyết viết về Quang Trung – Nguyễn Huệ rất hay, nó vượt lên hẳn những cuốn viết về nhà Tây Sơn trước đó. (Tôi đã có bài tiểu luận viết về “Thiên mệnh” đăng trên báo Văn nghệ. Một thời gian sau nhà thơ Hữu Thỉnh viết một bài đăng trong tập tiểu luận phê bình của ông).

Khi chuẩn bị xét giải, chủ tịch hội đồng vừa nhắc đến “Thiên mệnh” thì một trong những thành viên có vai vế trong hội đồng, tự cho mình là nhân vật “cấp tiến” phán một câu xanh rờn: “Viết cũ! Viết kém! Không thể xét giải được!”. Thế là cả hội đồng dừng lại. Nghiễm nhiên “Thiên mệnh” bị loại. Tôi biết, cái vị thành viên có vai vế kia chưa hề đọc “Thiên mệnh”, đáng phê phán đã đành, nhưng ngay cả những thành viên trong hội đồng cũng thiếu một tinh thần, khí tiết, cốt cách của “Kẻ sĩ Thăng Long”. Buồn lắm thay!

Báo Văn nghệ số 35+36, ra ngày 30 tháng 8 năm 2025, chào mừng hai ngày lễ lớn của Việt Nam, ở hai trang 36 và 37 đăng bài tiểu luận phê bình của Đỗ Hải Ninh; cũng giống như một số tác giả từng viết có tính chất “tổng kết” thời kỳ văn học cách mạng, đăng ở những số báo đặc biệt, thường “điểm danh” hầu hết những tác giả có cống hiến trong thời kỳ văn học quan trọng này, nhưng bài viết của Đỗ Hải Ninh năm nay lại có những nét rất khác thường. Một số nhà văn đứng đầu bảng trong dòng văn học chiến tranh chống Mỹ như Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Thu Bồn, Xuân Thiều… đã bị bà Ninh loại ra khỏi bộ nhớ. Còn những nhà văn trẻ hơn, cũng từng cầm súng ra trận như Chu Cẩm Phong, Dương Thị Xuân Quý, Triệu Bôn, Văn Lê, Nguyễn Trọng Tân, Lê Hoài Nam, Hữu Ước, Trung Trung Đỉnh, Phạm Ngọc Tiến…bà Ninh coi như không hề biết họ viết văn.

Đỗ Hải Ninh “điểm danh” cả một số tác giả viết cho thiếu nhi nhưng một nhà văn xuất sắc nhất về lĩnh vực này là Nguyễn Nhật Ánh thì không thấy đâu. Trong khi đó bà Ninh xếp những người có thành tựu, đáng điểm mặt trong bài viết, gồm dăm bảy nhà văn có thành tựu nhưng về cuối sự nghiệp lại viết bài viết có tính chất “xám hối” vì đã viết “cổ vũ, tuyên truyền” cho những đoàn quân ra trận hoặc xuyên tạc về cuộc chiến tranh. Thậm chí Đỗ Hải Ninh còn biểu dương vài ba lần những tác phẩm nhầy nhụa trong tình dục hoặc phê phán một ai đó đã “cản trở” những những tham vọng cá nhân, những toan tính vị kỷ trong cuộc sống dưới tầm bom đạn địch. Chẳng nhẽ đấy là những “thành tựu” trong 80 năm văn học cách mạng?

Hiện nay, công chúng rất khó nhận diện và tìm đọc một tác phẩm văn học hay theo đúng nghĩa. Cái hay của văn chương hôm nay đang bị một số người làm nhiễu loạn. Các cơ quan truyền thông ở ta có rất ít chương trình dành riêng cho văn học. Nó thường được lồng ghép cùng với các loại hình nghệ thuật khác. Thời lượng dành cho văn học ít ỏi như thế, những biên tập viên và người dẫn chương trình lại không chuyên sâu về văn học, thường phải nhờ một số nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu mà họ quen biết tư vấn. Những người tư vấn cũng rất ít đọc, họ chỉ đọc tác phẩm của những người “hợp khẩu vị” với mình. Vì thế chương trình mang tính chất toạ đàm nào cũng chỉ loanh quanh mấy gương mặt đã quen, quen đến mức thấy người ấy xuất hiện, người ta đã biết ông ta – bà ta nói gì rồi. Công chúng văn học không tìm được một cơ quan “quang minh chính đại” dẫn dắt họ về văn học. Vì thế, những năm gần đây có khá nhiểu cuộc thi và trao giải thưởng văn học mà hầu như cuộc trao giải thưởng nào cũng bùng nổ những tranh cãi, thậm chí gay gắt, nhưng không một cơ quan truyền thông nào lên tiếng, dẫn dắt dư luận một cách công tâm, đúng đắn nhất.

Một vài hiện tượng trong văn học Việt Nam hôm nay
Hiện nay, công chúng rất khó nhận diện và tìm đọc một tác phẩm văn học hay theo đúng nghĩa - (Lê Hoài Nam) . Hình ảnh minh họa. Nguồn Internet

Còn khá nhiều những hiện tượng khá lạ lùng, quái gở diễn ra ra trong văn học những năm gần đây, nhưng trong phạm vị một bài viết, tôi không thể kéo dài hơn nữa…

-----------

Bài viết được khai thác từ tham luận tại Hội thảo tổng kết Văn học Việt Nam sau năm 1975 với chủ đề “Văn học Việt Nam sau năm 1975 thành tựu, vấn đề và triển vọng”.

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Baovannghe.vn- Tôi về ấp Sơn Ton, xã Cù Lao Dung, thành phố Cần Thơ vào một ngày tháng tám, khi miền Tây vào giữa mùa mưa, mang theo những cơn giông bất chợt.
Làng không còn xanh bóng tre

Làng không còn xanh bóng tre

Baovannghe.vn - Trước hết, hãy thử dừng lại một chút để hiểu cho tường tận hai tiếng “làng”. Làng (thôn, bản, tổ dân phố) - không chỉ là một đơn vị cư trú đơn giản trên bản đồ.
Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Baovannghe.vn - Bộ GD&ĐT vừa có văn bản gửi một số sở GD&ĐT lấy ý kiến góp ý dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 29/2024/TT-BGDĐT ngày 30/12/2024 của Bộ trưởng Bộ GDĐT (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm.
Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Baovannghe.vn - Hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức (1975 – 2025), vào hai đêm 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm, Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức hòa nhạc mang tên Tấu khúc lưỡng cực – A Rhapsody of Two Worlds.
Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ