Văn Nguyễn Thành Long như một bài thơ buồn êm dịu, một bông cúc nhỏ xinh run rẩy nở trong sương sớm. Nhiều khi, hồn văn ông làm dịu mát lòng ta như mạch nguồn trong trẻo, dịu dàng.
Đọc văn, mê văn ông đã từ lâu, vậy mà đến tận năm 1985, nếu không có trại sáng tác của Hội Nhà văn mở, chưa chắc tôi có dịp gặp ông.
|
Tôi còn nhớ như in một buổi chiều giữa thảo nguyên Châu Mộc, từ trong chiếc xe U-oát của Hội Nhà văn còn đỏ bụi đường, một ông già trạc sáu mươi gầy yếu, run rẩy bước ra. Ông vừa trải qua chặng đường gần hai trăm cây số, từ Hà Nội lên. Dáng ông phờ phạc, mệt lả vì nắng, vì gió Lào khô khốc, và nhất là lại bị quăng quật hàng trăm cây số lên đèo, xuống dốc. Ông già người miền Nam ấy chính là Nguyễn Thành Long. Ở tuổi ông, cùng trong đoàn có nhà văn Hoàng Thao còn tráng kiện, nhanh nhẹn lắm.
Buổi lên lớp đầu tiên, ông chậm chạp bước từng bước lên bục giảng. Tay ông run run đưa cặp kính lên sống mũi. Cầm đề cương bài giảng, tay ông cũng run rẩy. Ông nói chậm rãi, có phần hơi vất vả. Nhưng khi đọc truyện Hạnh Nhơn của mình để minh họa cho bài giảng, ông bỗng trở thành con người khác. Giọng ông tuôn chảy theo mạch ngầm hồi ức của một chàng trai tập kết nơi miền Bắc, nhớ về người con gái quê hương. Sau hơn hai mươi năm đằng đẵng cách xa, ngày giải phóng miền Nam, chàng trai ấy trở về, đi tìm người thân yêu cũ, nàng đã không còn. Nhưng, hình bóng người xưa lại hiện lên qua gương mặt của cô gái trẻ hôm nay - Hạnh Nhơn - đứa con của nàng với một người đồng đội đã hy sinh. Hạnh Nhơn đâu có biết, vì mối tình thầm lặng với người đi tập kết, mẹ cô khi còn sống, luôn vẽ nên trong tâm tưởng cô hình ảnh đẹp đẽ của một người cha đang sống nơi miền Bắc. Nay “người cha” đã trở về trong ngày vui hai miền thống nhất, cô gái nghẹn ngào cất tiếng gọi: “Ba!”
Chúng tôi lặng người vì xúc động. Hạnh Nhơn giản dị mà ám ảnh, day dứt. Nó không còn đơn thuần là câu chuyện về một mối tình. Nó là nỗi đau chia cắt hai miền, là tấm lòng thủy chung với cách mạng, là sự cao thượng và nhân ái. Những điều lớn lao ấy chứa đựng trong một cốt truyện không li kì lắt kéo, trong những lời văn cũng giản dị như dòng chảy lặng lẽ của thời gian. Vậy cái ma lực làm rung động lòng người ở chỗ nào? Ở hồn văn Nguyễn Thành Long. Ông đã phả hồn mình lặng lẽ run rẩy trong từng câu chữ.
*
Lên Tây Bắc, là cả một hành trình gian khổ với bao đèo cao vực thẳm: Xe chạy nghiêng nghiêng trèo dốc núi/ Lên miền Tây vời vợi nghìn trùng (Lên miền Tây - Bùi Minh Quốc). Điện Biên trong thơ Tố Hữu cũng xa vời như cổ tích: Điện Biên vời vợi nghìn trùng/ Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta. Dấu ấn tâm lý của một dân tộc quen đi bộ đã in cả lên những câu thơ về những khoảng không gian chỉ vài trăm cây số. Dấu ấn ấy cũng in lên những trang Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long. Giữa mênh mông lặng lẽ của núi rừng, trên dải núi mờ sương có đặt đài khí tượng, chàng trai trẻ hàng ngày xuống vác gỗ chặn đường, dừng xe khách để có người trò chuyện dăm ba phút. Lặng lẽ Sa Pa kể về sự hy sinh thầm lặng, về nỗi cô đơn thèm khát tiếng người. Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đơn giản ấy, với những chàng trai, cô gái miền xuôi lên Tây Bắc công tác, cao xa vời vợi làm sao. Mười một năm ở Tây Bắc, tôi đã từng lang thang dọc nẻo đường biên giới, gặp những cô giáo miền xuôi một mình một bản, dạy dăm ba đứa trẻ áo chàm chân đất, quanh năm không gặp một bóng người Kinh. Họ đã để tuổi xuân trôi đi lặng lẽ ẩm mốc ở một góc rừng. Lặng lẽ Sa Pa đã nói được tiếng lòng của chúng tôi, tri âm với bao số phận đang bị chìm trong quên lãng. Giờ được gặp ông, thấy ông mỗi buổi chiều thường thơ thẩn đi bách bộ dưới hàng cây bạch đàn quanh nhà khách nông trường, lặng ngắm thảo nguyên Châu Mộc mênh mông, xa xa là những dải núi xanh mờ, có cảm tưởng cái lặng lẽ trong văn ông, cũng hệt như con người ông ngoài đời vậy.
Gần bốn chục cây bút của trại chúng tôi hầu hết là người miền núi. Đọc sách báo, biết tên tuổi nhau, nhưng chưa biết mặt, trại sáng tác trở thành ngày hội bạn bè, chẳng hôm nào chúng tôi không tụ tập uống rượu. Chuyện văn, chuyện đời rôm rả. Xong rồi, ai ngồi vào bàn người nấy, viết thâu đêm suốt sáng. Không cuộc nào, chúng tôi không “kéo” các nhà văn phụ trách trại viết cùng vui. Nguyễn Thành Long đang bệnh, phải kiêng rượu, cũng không thể từ chối tham gia dự tiệc. Ông bảo ngồi với chúng tôi để vui lây cái vui của tuổi trẻ, để sống cùng khí thế say mê cầm bút hừng hực của chúng tôi. Ông lắng nghe chúng tôi đọc những bài thơ vừa sáng tác, những đề cương truyện ngắn đang ấp ủ. Bàn về chuyện văn chương, Nguyễn Thành Long sôi nổi hẳn lên. Chỉ nhìn riêng gương mặt của ông, không ai bảo đó là một ông già ốm yếu. Ở ông, vầng trán cao với đôi mắt sáng, sinh động, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười thật hiền hậu, tạo cảm giác dễ tin yêu.
Thật may mắn, trong thời gian dự trại, tôi được các nhà văn Nguyễn Thành Long, Mạc Phi, Hoàng Thao dành nhiều thời giờ đọc và góp ý hoàn thành bản thảo. Không phải vì các ông thiên vị, mà bởi các trại viên cầm bút viết văn xuôi chỉ đếm trên đầu ngón tay. Còn lại hơn ba chục vị, từ các cây bút cao niên như Cầm Biêu, Lò Văn Cậy, đến các cây bút trẻ Lò Ngân Sủn, Bế Thành Long, Triệu Thị Mai... đều sinh hoạt ở tổ thơ. Văn xuôi miền núi đang ở thời kỳ chập chững.
Cũng ngay trong năm ấy, tháng 8-1985, nghỉ hè, tôi về Hà Nội và ghé thăm ông. Vừa gặp tôi, ông hỏi ngay:
- Truyện ngắn của Thủy vừa mới in, đã đọc chưa?
Ông chìa cho tôi tờ báo Văn nghệ, số kỷ niệm 40 năm Cách mạng tháng Tám. Tờ báo còn thơm mùi mực. Tôi vừa về Hà Nội, chưa kịp biết truyện của mình đã được in. Từ trước tới nay, tôi mới chỉ in thơ và một vài truyện ngắn trên Văn nghệ Sơn La và Văn nghệ Lai Châu. Lần đầu tiên, được giới thiệu trên Văn nghệ (Trung ương), lòng tôi xốn xang, đọc say mê ngốn ngấu. Đọc xong, lại còn đưa tờ báo lên ngửi mùi mực thơm ngây ngất. Chờ cho tôi đọc xong, ông bảo:
- Truyện Tình yêu của Vạt của Thủy xuất sắc nhất trong số văn xuôi của trại. Bọn mình chọn giới thiệu với báo Văn nghệ để in. Thú thực, đọc bản thảo, đến khi báo in ra, đọc lại mình vẫn còn xúc động. Thủy viết về miền núi giỏi quá, nhất là đoạn trai gái tỏ tình với nhau bằng “pí-pặp”. Không uổng những năm sống với núi rừng Tây Bắc. Nguyên Ngọc cũng rất khen những truyện của Thủy viết về Tây Bắc.
Tôi lâng lâng như ở trên mây. Được các bậc thầy trong nghề truyện ngắn khen, sao lại không sướng được?
*
Có thể nói, năm 1985 là năm tôi có nhiều niềm vui và có duyên gặp gỡ với ông. Tại Hội nghị những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ 3 (tháng 12), ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau trò chuyện. Người ta ồn ào vui vẻ rủ nhau chụp ảnh chung lưu niệm, riêng ông thường hay lánh và kéo tôi ra một góc trong những giờ giải lao, hỏi chuyện về Tây Bắc.
“Nếu Thủy quyết tâm theo nghiệp sáng tác, nên tìm cách về Hà Nội.” Ông bảo tôi. “Mỗi người viết cần có một vùng đất của mình, nhưng cũng không nên ở lâu quá, nó cùn mòn đi. Tích lũy vốn sống Tây Bắc hơn chục năm như thế là đủ rồi. Cần phải thay đổi môi trường, để từ xa nhìn về Tây Bắc, có khi viết lại hay hơn. Hà Nội là cái nôi, là trung tâm văn hóa, có nhiều điều kiện học hỏi, giao lưu và in ấn.”
Nghe lời khuyên của ông, năm 1988, tôi về Hà Nội học sau đại học, với mục đích chủ yếu là được “chuyển vùng”. Căn nhà trên gác hai - số 9 phố Dã Tượng - của ông trở nên thân thuộc với tôi. Thường chỉ có hai thầy trò ngồi đàm đạo. Vợ ông là bác sĩ, ít khi có nhà. Cô con gái đầu - Quê Hương - đã lấy chồng ra ở riêng, thỉnh thoảng mới về thăm. Cô gái út - Hoa Hồng - đang là sinh viên trường Đại học Tổng hợp. Có hôm chủ nhật cả nhà đông đủ, cả hai cô gái cũng xen vào bàn chuyện văn chương với chúng tôi…
Cuối tháng 8 năm 1990, trước khi sang Nga học ở trường Viết văn Gorki, tôi đến chào từ biệt thầy. Thầy đang nằm ôm bụng vì cơn đau, vẫn gắng ngồi dậy tự tay pha trà. Bàn tay thầy run rẩy trao chén trà cho tôi, khiến tôi rưng rưng xúc động.
Không ngờ, đó là lần cuối cùng tôi được gặp thầy. Năm 1991, nhà thơ Trần Đăng Khoa về nghỉ phép sang, báo với tôi rằng nhà văn Nguyễn Thành Long đã mất. Tôi lặng người đi khi nghe tin ấy.