Sự kiện & Bình luận

Kỳ Sơn chưa gặp đã thương rồi! Bút ký của Trần Quỳnh Nga

Trần Quỳnh Nga
Bút ký phóng sự 08:00 | 03/08/2025
Baovannghe.vn- Đối với tôi, Kỳ Sơn, Nghệ An là một vùng đất lạ, nhưng đối với ba tôi, nơi đây là một vùng kí ức! Tôi không nghĩ nó gây ấn tượng mạnh cho ông đến thế cho đến khi tôi hiểu nó là tuổi trẻ, là khát vọng, là đam mê của cuộc đời ông...
aa

Đối với tôi, Kỳ Sơn, Nghệ An là một vùng đất lạ, nhưng đối với ba tôi, nơi đây là một vùng kí ức! Tôi không nghĩ nó gây ấn tượng mạnh cho ông đến thế cho đến khi tôi hiểu nó là tuổi trẻ, là khát vọng, là đam mê của cuộc đời ông...

Kỳ Sơn chưa gặp đã thương rồi! Bút ký của Trần Quỳnh Nga
Ảnh: Sách Nguyễn

...Chuyện hãy còn rất dài... dù từ khi xuống núi đến giờ, năm 1983, ông chưa từng quay về nơi đó...

Còn tôi thì muốn tới, ít ra là một lần trong đời!

Chiếc xe xộc xệch một lúc rồi dừng hẳn. Người phụ xe nhanh thoăn thoắt mở cửa xe dỡ hàng hóa, miệng nói tay làm:

- Đến ngã tư Khai Sơn rồi, ai đi Tân Kỳ thì xuống xe nhé.

- Còn bao lâu thì đến Kỳ Sơn, bác tài?

- Kỳ Sơn còn xa lắm, phải qua Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương rồi mới đến được Kỳ Sơn. Cô cứ ngủ đi một lúc, xe qua từng ấy huyện, phải mất mấy giờ đồng hồ. Sớm lắm thì khoảng 2 giờ chiều mới đến được Mường Xén.

Đúng là có chút nóng ruột, có chút xốn xang khi nghe đến hai từ “Mường Xén”. Ở đâu đó trong tim tôi, hai từ đó là chỉ đến một địa chỉ thật xa vời.

Nhớ một lần hồi nhỏ, khi tôi đang chơi đồ hàng trước sân thì có một người đi vào nhà. Người đàn ông da ngăm đen, trông thấy tôi liền vứt vội chiếc ba lô to phồng chạy đến dang tay ra đón tôi gọi lớn:

- Quỳnh ơi! Lại đây con!

Tôi sợ hãi núp sau lưng ông nội, tiếng gọi ấy làm tôi thấy xa lạ. Người đàn ông ấy lạ quá! Bộ quân phục bạc màu, ba lô to sù sụ, mùi nắng gió hăng hắc theo ông vào tận nhà. Tôi không hiểu tại sao mẹ lại mỉm cười, còn ông nội thì lặng lẽ rưng rưng.

Suốt mấy ngày, tôi không chịu nói chuyện với người lạ được gọi là ba đó. Tôi không cho ba lại gần mẹ, không cho ba ngồi lên chiếc ghế salon tôi vẫn hay ngồi nghe mẹ kể chuyện. Tôi bướng bỉnh, giận dỗi, thậm chí khóc lóc khi ba bước vào phòng. Ba chỉ im lặng nhìn tôi, ánh mắt buồn buồn như cố kìm một điều gì đó rất lớn trong lòng.

Đến ngày ba xách ba lô rời đi, tôi mới thấy có gì đó nhoi nhói trong ngực. Không ai bảo, chân tôi tự chạy ra cửa. Tôi nhìn thấy ba lưng đeo ba lô, cúi đầu chào ông bà rồi quay lại nhìn mẹ. Đôi mắt ba đỏ hoe. Khi ba lén nhìn tôi, ánh mắt chợt sáng lên, run run như muốn nói điều gì mà không thể.

Tôi òa khóc, chạy đến, ôm chầm lấy ba, thật chặt. Mùi áo lính sờn cũ hôm nào giờ lại ấm áp lạ kì. Bàn tay ba thô ráp, vòng qua lưng tôi nhẹ nhàng vỗ về.

- Ba xin lỗi, Quỳnh của ba... Ba nhớ con nhiều lắm...

Tôi nức nở:

- Sao ba lại đi? Ba đừng đi nữa!

Ba cúi xuống, thì thầm:

- Rồi ba lại về. Ba hứa!

Lần đầu tiên tôi thấy ba khóc.

Chiếc xe đưa ba đi xa dần, khuất sau con dốc đỏ. Tôi đứng bên mẹ, nước mắt vẫn chảy. Trái tim non nớt của tôi lần đầu biết thế nào là nỗi nhớ một người cha - người chỉ kịp ở bên mình vài ngày, nhưng để lại vết thương yêu thương kéo dài mãi tận sau này.

*

Chiều, chiếc xe đỗ xịch xuống thị trấn Mường Xén làm tôi bừng tỉnh. Trời lạnh và nhiều mây mù. Mây cuồn cuộn sà sát đỉnh núi phía cửa khẩu Nậm Cắn chừng như chuẩn bị ập thẳng xuống thị trấn phố núi chon von chót cùng miền Tây xứ Nghệ. Tôi đã được dự báo từ trước về tiết trời Kỳ Sơn vào những tháng mùa khô này nhưng vẫn không thể nào hình dung ra nổi Kỳ Sơn lại vừa lạ lùng, vừa lạnh lùng đến thế, dẫu cung đường tôi đã đi dài chưa trọn một ngày đường.

Ấy vậy mà có lần ba tôi kể rằng: hồi đó muốn đi từ Thị xã Hà Tĩnh lên Kỳ Sơn phải mất đến 3 ngày. Một ngày từ Hà Tĩnh ra Vinh, mua vé xe lên đến Thanh Chương rồi dừng lại. Hồi đó Thanh Chương qua đò, sau đó là hoàn toàn tùy thuộc vào thời tiết. Trời nắng đường đi còn nhanh, trời mưa thì chịu, ở lại ngủ đất, nằm rừng chờ trời tạnh mới tiếp tục lên đường. Vì thế, những ngày phép với ba tôi bao giờ cũng rất vội vàng.

Tôi sinh ra ở một thị xã nhỏ dưới xuôi, cách biên giới hàng trăm cây số, nhưng lại thuộc lòng từng tên bản, từng con dốc, từng ngọn suối của vùng núi Kỳ Sơn - Nghệ An. Không phải vì tôi từng sống ở đó, mà bởi Kỳ Sơn sống trong kí ức ba tôi - người đã có gần chục năm công tác nơi vùng biên viễn vào những năm 78,79 của thế kỉ trước.

Ba tôi không kể nhiều về những chiến công hay nhiệm vụ cụ thể. Thứ ông hay nhắc là cái lạnh buốt giữa mùa đông không áo ấm, là bữa cơm độn ngô bên bếp lửa rừng, là những bản làng cheo leo giữa đại ngàn, nơi mà người dân còn tưởng lính là “người từ thành phố xuống” - lạ lẫm, xa xôi. Mỗi lần kể, giọng ba chậm lại, ánh mắt như lùi về những ngày ròng rã trên đường mòn, chiếc ba lô ướt mưa, tiếng chó sủa vọng qua núi báo hiệu gần tới bản, và cả nỗi mừng rỡ khi gặp ánh lửa giữa đêm khuya sau một chặng hành quân.

Kỳ Sơn những năm 90 là vùng đất nghèo đến tận cùng. Điện không có, sóng radio yếu ớt, mùa khô thì nứt đất, mùa mưa thì ngập lũ. Đường sá chỉ là lối mòn qua núi, muốn vào bản phải vượt vài ba con suối, có khi lội nước tới bụng. Nhưng với người lính công tác vùng biên như ba tôi, gian khó chưa bao giờ là điều khiến họ nản lòng. Nguy hiểm nhất là an ninh biên giới: chống vượt biên trái phép, ngăn chặn ma túy thẩm lậu, tuyên truyền pháp luật đến từng hộ gia đình trong khi ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số không thông, văn hóa khác biệt.

Nơi đây còn được biết đến như một “thủ phủ thuốc phiện” của cả nước. Cây anh túc được trồng tràn lan trên khắp các triền núi, bạt ngàn như những cánh đồng hoa trắng ma mị. Những bản làng người Mông, Khơ Mú, Thái... khi ấy sống nghèo khó, quanh năm chỉ biết bám vào rẫy thuốc phiện như kế sinh nhai duy nhất giữa rừng sâu hiểm trở. Chính phủ đã phát động chiến dịch xóa bỏ hoàn toàn cây thuốc phiện, và Kỳ Sơn là một trong những mặt trận nóng bỏng nhất. Cuộc chiến ấy không chỉ chống lại cây thuốc phiện, mà là cuộc đấu tranh toàn diện với tư tưởng, tập quán cũ, và cả những đường dây tội phạm xuyên biên giới.

Ba tôi cùng đồng đội phải trèo đèo, lội suối, phá từng nương thuốc, thuyết phục từng hộ dân - nhiều khi đối mặt với ánh mắt e dè, thậm chí là căm tức của chính người dân mình bảo vệ. Có người giấu giống trồng vụ mới, có kẻ tiếp tay cho đường dây buôn bán qua biên giới. Lính công an, bộ đội vừa làm nhiệm vụ, vừa dạy chữ, chữa bệnh, gùi thuốc men lên bản. Những hành động âm thầm bền bỉ, với những chính sách hỗ trợ cây - con giống, mô hình sinh kế thay thế, từng bước cây thuốc phiện đã biến mất khỏi vùng núi Kỳ Sơn.

Đó là một chiến thắng không chỉ đổ nhiều mồ hôi, nước mắt và sự hi sinh thầm lặng.

“Có bản phải vào lần thứ ba họ mới tin mình không phải đến bắt, mà đến để giúp.” Ba nói. Khi ấy, người lính không chỉ giữ biên giới, mà còn làm dân vận, làm giáo dục, làm kinh tế - tất cả chỉ để giúp đồng bào thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo và ma túy.

Trong kí ức của ba tôi - một người lính từng bám trụ vùng biên những năm ấy - Kỳ Sơn là một nơi vừa khắc nghiệt, vừa đầy thương mến. Ông không kể nhiều về những chiến công, mà hay nói về những đêm rừng lạnh tê tái, những lần gùi thuốc men vào bản, những lần vận động dân phá bỏ nương anh túc mà nước mắt rơi vì hiểu dân nghèo, nhưng vẫn phải làm.

Hơn 40 năm sau, tôi có dịp đặt chân đến nơi mà ba tôi từng gọi là “ngôi nhà thứ hai”. Xe khách giờ đã lên tận trung tâm huyện. Quốc lộ 7A không còn những ổ voi ổ gà như lời kể của ba. Nhiều bản được nối bằng cầu treo, có nơi đường bê tông vào tận chân ruộng. Những đứa trẻ Mông, Khơ Mú đeo cặp sách tung tăng, chào khách lạ bằng tiếng Kinh rõ ràng. Tôi đứng lặng giữa Mường Lống trong buổi sáng sớm bảng lảng sương giăng. Đỉnh Pù Xai Lai Leng vươn lên mờ ảo như tranh thủy mặc. Con đường bê tông dẫn vào bản giờ đã rộng và sạch, chẳng còn giống chút nào so với những gì tôi từng nghe ba kể ngày nhỏ. Nơi cha tôi từng gọi là “vùng trắng”, là “thủ phủ thuốc phiện” giữa rừng sâu núi thẳm, giờ đã khác.

Ba tôi từng công tác ở đây. Mường Lống là nơi ông dành trọn những năm tháng thanh xuân, ăn ngủ trong lán tạm, bám bản, cùng dân vận động xóa bỏ cây anh túc. Ba bảo: “Ngày ấy, cả bản chỉ có cái radio bé xíu. Trạm y tế, trường học, điện nước... là thứ chỉ có trong giấc mơ.”

Thế mà giờ đây, giấc mơ ấy đã thành hiện thực.

Tôi đi giữa bản, ngỡ ngàng như lạc vào một thế giới khác. Mường Lống hôm nay không chỉ có đường sá, trường lớp, trạm y tế khang trang... mà còn có những sản phẩm nông nghiệp OCOP mang đậm hồn cốt núi rừng - những “trái ngọt” sau bao năm tháng khai phá và gìn giữ.

Trên sườn đồi, những nương mận tam hoa Mường Lống đang mùa trái chín. Loại mận được trồng ở độ cao hơn 1.300m, từng bước trở thành đặc sản. Quả mận to, da căng bóng, vị giòn ngọt lạ lùng - như được thấm đượm cả sương sớm và tình đất.

Bên kia bản, mật ong rừng Kỳ Sơn được đóng chai tinh tế, mang đi khắp các hội chợ vùng miền. Thứ mật vàng óng, mùi thơm dịu nhẹ, là kết tinh từ hàng trăm loài hoa dại nơi rừng sâu. Dưới tán rừng, người dân đang trồng sa nhân tím, ý dĩ, hà thủ ô - những cây dược liệu quý, không chỉ cải thiện sinh kế mà còn góp phần giữ rừng, bảo tồn bản sắc.

Tôi dừng chân bên một quầy hàng nhỏ ven đường, nơi một người phụ nữ Mông giới thiệu rượu men lá Mường Lống do chính tay chồng chị ủ từ gạo nếp. Chị bảo: “Rượu này người Mông ủ để cúng tổ tiên, giờ có giấy chứng nhận OCOP rồi. Được mang đi bán khắp huyện, khắp tỉnh. Vui lắm!”

Trong nụ cười rạng rỡ ấy, tôi bỗng thấy thấp thoáng ánh mắt ba ngày nào - ánh mắt của một người từng tin rằng, dù gian khổ mấy, vùng đất này rồi sẽ hồi sinh.

Giờ đây, những điều ba từng ấp ủ đã dần thành hiện thực. Mường Lống không còn chỉ là vùng biên viễn heo hút, mà đang từng bước vươn mình nhờ bàn tay cần cù và ý chí bền bỉ. Những sản phẩm OCOP không chỉ là hàng hóa - mà là kết tinh của khát vọng sống tốt hơn, sạch hơn, văn minh hơn của đồng bào nơi đây.

Kỳ Sơn vẫn còn đó những khó khăn, nhưng đã không còn là “thủ phủ của thuốc phiện” hay “điểm đen của tội phạm ma túy” nữa. Mảnh đất này đang hồi sinh từng ngày - từ lòng dân, từ niềm tin, và từ những hi sinh thầm lặng của thế hệ đi trước.

Ba tôi giờ đã mất. Ông ra đi lặng lẽ như cách ông từng sống. Tôi lặng nhìn những đồng đội của ba gạt nước mắt tiễn đưa, những người chú, người anh em, người đồng đội một thời đã cùng ba vào sống và làm việc với mảnh đất Kỳ Sơn giờ đã đầu hai màu tóc. Các chú đã nghỉ hưu về lại quê nhà. Mỗi người một quê ít có khi nào hàn huyên tụ họp nhưng cứ mỗi lần được gặp, câu chuyện về Kỳ Sơn cứ được kể mãi không thôi.

Tôi lớn lên từ những câu chuyện đó. Và tôi hiểu rằng, một vùng đất có thể thay đổi không chỉ nhờ chính sách, mà còn nhờ những con người tin tưởng, kiên trì và dấn thân. Ba tôi là một trong những người như thế - như bao người lính khác - đã thắp lên những tia sáng đầu tiên cho vùng biên Kỳ Sơn thay đổi từng ngày…

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Baovannghe.vn- Tôi về ấp Sơn Ton, xã Cù Lao Dung, thành phố Cần Thơ vào một ngày tháng tám, khi miền Tây vào giữa mùa mưa, mang theo những cơn giông bất chợt.
Làng không còn xanh bóng tre

Làng không còn xanh bóng tre

Baovannghe.vn - Trước hết, hãy thử dừng lại một chút để hiểu cho tường tận hai tiếng “làng”. Làng (thôn, bản, tổ dân phố) - không chỉ là một đơn vị cư trú đơn giản trên bản đồ.
Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Baovannghe.vn - Bộ GD&ĐT vừa có văn bản gửi một số sở GD&ĐT lấy ý kiến góp ý dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 29/2024/TT-BGDĐT ngày 30/12/2024 của Bộ trưởng Bộ GDĐT (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm.
Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Baovannghe.vn - Hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức (1975 – 2025), vào hai đêm 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm, Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức hòa nhạc mang tên Tấu khúc lưỡng cực – A Rhapsody of Two Worlds.
Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ