Đây là khúc sông kì quặc và hiểm trở nhất bởi có tới chín khúc gấp quanh co với nhiều vực thẳm và dòng chảy bất thường, nước xoáy xiết sắc nhọn như lưỡi cưa. Vì vậy từ xưa người ta đã gán cho đoạn này với những cái tên nghe rờn rợn như: Cửu khúc, Chín khúc hội lai, Chín khúc hói nai... gọi thế nào cũng được, nhưng thông dụng hơn cả là Chín khúc hồi lai.
![]() |
| Minh họa Đặng Tiến |
Theo tiến sĩ Bùi Dương Lịch (1757-1828): Sông Ngàn Sâu gọi là Thâm Nguyên giang bắt nguồn từ biên giới Ai Lao chảy về đến Phúc Lộc thì sông Giàng bên trái nhập vào, chảy đến Thái Yên thì sông Tiêm Giang bên phải nhập vào, đến Trúc Khê thì Trúc Giang và Bào Lăng lại từ bên trái nhập vào, đến Thổ Lỗi là núi. Núi quay về hợp với sông, sông núi cuốn quanh, ở giữa trông vào giống như con rồng xanh quấn lấy đất tạo thành “Hồi lai chín khúc”.
Như vậy, rất có thể cái tên Chín khúc hồi lai được bắt nguồn từ Hồi lai chín khúc, nhưng do cách phát âm ngược cho dễ đọc, dần dần trở thành thói quen?
Chín khúc hồi lai bị kẹp lại bởi những dãy núi cao với vách đá dựng đứng. Bình thường nước được tống đi rất dữ, gặp phải mưa lũ dâng cao thêm bị bức tử càng phá phách hung dữ. Do thoát không kịp nên có khi chỉ trong vài giờ lũ đã dâng cao lên tới chục mét, biến vùng này thành biển nước mênh mông.
Đã vậy từ khi thượng nguồn Ngàn Sâu bị ngăn làm đập Thủy điện Hố Hô vào năm 2010, lũ lụt càng trở nên quái dị. Oái oăm thay, nhà máy Thủy điện này thường xả tràn vào đêm, vì thế bất trắc không thể nào lường hết. Đã bao năm rồi vẫn vậy, nhiều gia đình ở đây vẫn chạy lũ trắng đêm, bao đôi mắt trẻ thơ quầng lên mất ngủ, bao cụ già và phụ nữ bụng mang dạ chửa canh cánh trên những con thuyền ba ván tròng trành giữa cơn hồng thủy, chỉ biết ngửa mặt lên trời mà kêu than!...
Trở lại Phương Mỹ, nay thuộc xã Hà Linh vào một ngày tiết trời âm u cuối tháng Tám, những cây ngải tướng quân đang nở hoa oằn xuống dọc đường làng. Đó là tín hiệu đầu tiên mà theo kinh nghiệm của dân bản địa là sắp sửa sẽ xuất hiện mưa bão. Ông Trần Thanh Hải (SN 1966) quê Nghệ An vào làm nghề vạn đò trên đoạn sông này từ lúc còn trẻ cho hay, năm 2005 gia đình ông được chính quyền địa phương cấp đất làm nhà ở cố định, nhưng những gì ông từng chứng kiến tại Chín khúc hồi lai đủ làm cho ta phải sởn tóc gáy! Nếu không nắm được quy luật của nó thì không thể sống chung với nó. Bài học vỡ lòng đầu tiên đối với dân sông nước vùng này là phải nắm rõ tường tận từng điểm chảy nhỏ nhất để đối phó mà tồn tại.
Trước hết là khúc Bồông Bồông (còn gọi Hói Ná), ở vùng trại ông Tự. Sự khác biệt của khúc này một bên cát bồi, một bên là vách đá. Cát càng bồi nước càng phá. Dưới lòng sông có nhiều vực sâu, rộng bằng cả ngôi nhà đá ngầm sắc nhọn và lởm chởm, dân vạn chài không ai dám lặn xuống đó đánh bắt thủy sản.
Đầu năm 2008 trong lúc Phương Mỹ gặp đợt rét bất thường, trâu bò chết ngổn ngang, cụ Trần Hữu Vĩnh (lúc ấy đã 101 tuổi) đau xót nói: Ở đây vừa trải qua cơn lũ lịch sử năm 2007 đã cướp đi sinh mạng bao người, làm ngập và trôi hàng trăm ngôi nhà, hàng ngàn con gia súc, gia cầm bị mất tích... Lũ vừa đi qua thì rét đậm, rét hại lại đến khiến làng xóm càng tiêu điều! Theo cụ thì khoảng cuối thế kỉ XIX cha ông ta đã tìm cách đào phá gò Bồông Bồông để thoát nước. Tình cờ có thầy địa lí đi qua thấy vậy liền can ngăn. Vì Bồông Bồông là đầu rồng, Địa Lợi là đuôi. Nếu chặt đứt đầu rồng sẽ gặp họa lớn. Từ đó không ai dám tính đến việc đập phá gò này nữa.
Ngày nay Bồông Bồông vẫn để lại cả vùng nước sâu và rộng hoảng 10 ha. Hàng năm lũ đến đó bị ngưng lại như biển hồ trên núi. Gần đây bất chấp hiểm nguy, một số thợ lặn từ ngoài Bắc vào khai thác thủy sản, nhưng khi lặn chưa tới đáy đã gặp phải những hiện tượng khiếp đảm nên phải vội lên bờ bỏ về.
Qua Bồông Bồông là khúc Trẹm Cơn Vải nước rất xiết. Một bên vách núi cao, một bên là những bụi tre già được trồng từ xưa nhằm chống sạt lở. Đối với dân vạn đò thông thạo khi gặp lũ lớn chính là thời điểm lí tưởng để lách thuyền chạy tắt, vòng theo ruộng ngập lụt hai bên qua lại. Ngược lại lúc bình thường do địa hình dốc nước chảy thành thác cao dội xuống ầm ầm. Trong quá khứ, không ít thuyền bè từng bị thác nước cuốn vào ném xuống vỡ tan từng mảnh.
Trẹm này còn có bến đò ngang Bà Tự cùng bến đò Bà Hương ở bến Trúc cách đó gần 3m đều được dân trong vùng đặt cho cái tên chung là “Bến đò Chết”, bởi có rất nhiều người đã bỏ mạng ở đó. Sự kiện tang thương nhất phải kể đến vụ lật đò năm Bính Thìn (1976) khiến bảy học sinh cấp 3 trên đường đi học về bị cuốn trôi.
Tiếp đến là khúc Trẹm Tròn ở khu vực chợ Hôm với đặc điểm dễ nhận là loằng ngoằng như ruột chó, mà dòng chảy thì bất thường không tuân thủ bất cứ quy luật nào cả. Khi tiếp cận trẹm này người lái thuyền phải thật bình tĩnh ứng phó trước diễn biến thực tế để lèo lái thế nào cho hợp lí. Nếu không dễ bị lật chìm.
Ngược lại khúc Hói Địa (còn gọi Rôộc Lội) là chỗ thường ngày trâu bò bơi lội qua. Khác biệt lớn nhất chính là bên hữu ngạn nước vần ngược, còn phía tả ngạn lại vần xuôi. Nếu thuyền bè lạc giữa dòng mà không biết cách xử lí thì chẳng khác gì bị lạc giữa “mê hồn trận”, cứ xoay vòng như chong chóng khó thoát ra được.
Cách đó không xa là khúc Cửa Đền (còn gọi Vực Lụy). Vì trước đây trên bờ có một ngôi đền cổ và có chợ Lụy. Tương truyền vào thời nhà Trần, có một bậc ẩn sĩ đi qua thấy lạ, ông liền cho thuyền ra giữa dòng ném xuống một quả bưởi. Bỗng dưng quả bưởi xoay tít như trong miệng phễu rồi vụt biến mất. Ba tháng sau ông quay lại chỗ vực Rào, cách đó khoảng 15 km, chèo thuyền ra đợi sẵn, bỗng dưng quả bưởi nổi lên. Có giả thiết cho rằng ông xem Vực Lụy là rốn còn Vực Rào là nách của rồng nhưng long mạch bị nghẽn nên dùng quả bưởi làm phép khơi thông.
Theo Đại Nam nhất thống chí: Thổ Hoàng (tên cũ huyện Hương Khê). Thổ là đất, Hoàng là Vua, muốn chỉ đất Phương Mỹ là nơi các bậc Vua, Chúa từng đến khai khẩn, trong đó có Vua Trần Giản Định và Trần Quý Khoáng... Ngày nay ở đây còn có Nhà thờ Thổ Hoàng, một giáo xứ tiên khởi ở Hương Khê. Phương Mỹ còn có tên cổ Hoàng Điền Cương Thổ (đất nhà Vua). Qua đó, ta có thể suy luận truyền ngôn trên phần nào phù hợp với quá trình lịch sử dân tộc, đồng thời khẳng định Phương Mỹ từ xưa đã là vùng dân cư đông đúc và quy tụ lắm bậc hiền tài.
Gần cuối dòng là khúc Bến Trẹ với đặc thù bên bồi, bên lở thay đổi diễn ra rất nhanh. Nhưng bao giờ nước nửa dòng phía hữu ngạn cũng vần ngược, còn nửa dòng phía tả ngạn lại vần xuôi. Lũ đến thì tạo ra vùng ngập lụt rộng không xác định được đâu là bờ nên thuyền bè dễ bị đâm vào các doi cát ngầm. Ngày xưa trên bờ có nhà ga Phương Mộ được người Pháp chọn đặt để khai thác nguồn nước khoáng Giếng Khe. Nước Giếng Khe nổi tiếng ngon và dịu làm cho con người nhuần tính, hiền hòa ít xung đột. Người dân xóm Hạ ở Phương Mỹ từ bao đời xưa vẫn dùng nguồn nước này với đặc điểm nổi trội là cả làng có được những đức tính ấy.
Sau khi người Pháp rút khỏi, không ai quan tâm tu sửa, nên hệ thống dẫn nước ở đây bị xuống cấp và hư hỏng. Hơn nữa, hiện tượng sạt lở đất ven sông xảy ra nhanh. Vì thế tuyến đường sắt được chỉnh nắn sang hướng khác và dẹp bỏ ga Phương Mộ. Hiện nay vẫn còn rất nhiều cây dứa gai do người Pháp đem đến trồng mọc xen lẫn với cây cối hoang dại khắp cồn bãi, không gian càng trở nên vắng vẻ. Vì vậy nếu không may lỡ thuyền bè ai mắc phải cát ngầm thì quả là “họa vô đơn chí”.
Khác với Bến Trẹ, khúc Miệu Mô cũng có tuyến đường sắt chạy dọc bờ nên dân đò đêm thỉnh thoảng vẫn được nghe còi tàu hú đỡ buồn. Đặc điểm của khúc này rất kì lạ vì giữa dòng nước chảy xuôi, ngược lại hai bên thì vẫn ngược. Phía tả ngạn có hói chảy ngang sâu khoảng hơn 10 mét. Dân sông nước thường kháo nhau hói này rất thiêng vì liên quan đến ngôi Miệu Mô, và bãi tha ma Miệu Mô, có ngôi mộ Thằng Dạ - một kẻ du khất bị chết dọc đường, được dân thương xót đưa lên chôn cất cẩn thận. Thỉnh thoảng người qua bỏ lên đó một hòn đá, càng ngày mộ càng to lên.
Nhắc đến Chín khúc hồi lai không thể bỏ qua khúc Vực Gia. Đây là khúc sông vô cùng hiểm trở. Phía tả ngạn là dãy núi Trại Voi sừng sững án ngự như một chiếc vòi voi khổng lồ vươn ra ngoạn lấy sông, phía hữu ngạn là vực Gia Nậy sâu hoắm, tạo thành nơi eo thắt nhất và có độ dốc tới hơn hai mét. Khi lũ về thuyền bè khó có thể qua lại. Dân đò dọc coi vực này là điểm chết nên chỉ trừ lúc sông nước bình thường, còn mưa ngàn đến không ai dám mạo hiểm đánh đu với số phận ở đó.
Cuối cùng là khúc Khe Ré (còn gọi Độông Gà Gáy) ở gần trại ông Lục. Là nơi giáp ranh giữa ba xã Phương Mỹ, huyện Hương Khê (cũ) và xã Quang Thọ với xã Đức Liên, huyện Vũ Quang (cũ). Hai bên bờ là rừng núi hoang vu, gà rừng gáy lao xao tối ngày. Đặc điểm khúc này có bãi bồi lớn, thuyền bè chỉ qua lại được đoạn eo Nhà Trò hẹp và sốc nước. Hai bên bờ có nhiều cây duối dại, không có đò ngang, luôn là nỗi ám ảnh cho dân đò dọc bởi những hiện tượng ma quỷ.
Có thể nói Chín khúc hồi lai là đoạn sông dữ dằn nhất trong hệ thống sông ngòi miền Trung. Nhà nghiên cứu Giuse Ngô Xuân Thủy - giáo dân xứ Thổ Hoàng từng nhắc đến một đoạn hồi ức kinh hãi. Ấy là vào thời điểm xảy ra cơn lũ năm 1978. Khi đó xơ Soeur Liễu trong lúc về thăm gia đình, lợi dụng lũ dâng đã cùng ông và hai người khác chèo thuyền vào rừng chặt củi. Đến đoạn Rộc Lội gặp ông Trần Hữu Sâm chèo thuyền ngược chiều vào trại đã cảnh báo, thuyền của ông chở đầy củi quá phải vất bớt đi. Trong lúc ông Thủy đang phân vân vì lúc ấy đã đến sát bờ, thì trong tích tắc, một dòng xoáy ngược kéo con thuyền ra xa, xoay hai vòng từ trái sang phải.
Cầm chắc vóc chèo ấn chặt vào ngực, găm sâu bát cạy, ông Thủy cố lái con thuyền lướt ngược sang trái, nước lại tràn tiếp vào. Anh Bình đứng đầu mũi ráng sức găm chèo cho thuyền lướt ra, nhưng dòng xoáy quá mạnh, nước tiếp tục tràn vào, mạng sống của bốn người nằm gọn trong tay thủy thần. Một tín hiệu le lói khi bất ngờ con thuyền bắt đầu chiều theo ý chủ, nhưng chẳng được lâu, lũ lại kéo ra đâm thẳng vào vực Bến Đình. Trước phút giây sinh tử, con thuyền bỗng lách qua trái, chui vào cây sung còng ngã bên bờ như chờ đợi thuyền đâm vào để giằng lại. Nhờ đó ông Thủy cho thuyền chạy vào chợ Hôm, đưa cả bốn người lên bờ thoát nạn trong gang tấc.
Quả thực Chín khúc hồi lai quá hung dữ, nhất là khi mưa lũ đến. Tuy vậy cũng nhờ có lũ lụt đất đai thêm màu mỡ phù sa. Lũ cũng đem đến nguồn lợi thủy sản vô cùng phong phú. Những lúc như thế dân vạn chài chỉ cần chèo thuyền ra đặt lưới, vó xuống vớt lên là thu về được hàng yến cá. Đoạn sông này có nhiều loài thủy sản quý hiếm như cá mát, cá lăng, cá vược, cá chình... trong đó loài vẹm (trai sông) là một đặc sản nổi tiếng từ hàng trăm năm trước mà không phải nơi nào cũng có được. Bởi thế có câu ngạn ngôn: “Gần đất xa trời ngồi ho hen/ Cháo vẹm bổ dưỡng cường tráng lên/ Gân cốt ngũ chi ví hổ bạch/ Vợ chồng hạnh phúc làng xóm yên”.
Có lẽ đó cũng là lí do mà từ xưa dân vạn chài khắp nơi đổ về đây sinh sống. Hiện nay hầu hết họ đều được cấp đất ở cố định và trở thành cư dân bản địa. Trong số đó phải kể đến ông Trần Văn Nam (SN 1964) quê ở xã Trường Sơn, huyện Đức Thọ (cũ) theo cha mẹ đến lập nghiệp từ nhỏ. Ông là người cuối cùng lên bờ định cư từ năm 2022. Con thuyền cũ từng gắn bó với ông vẫn neo đậu bên chợ Hôm, lưu giữ bao kỉ niệm buồn, vui sông nước của ít nhất hai thế hệ gia đình ngỡ còn ngái ngủ!
Trên hết giá trị lớn nhất mà Ngàn Sâu đem lại chính là tạo ra tuyến giao thông đường thủy kết nối miền xuôi với miền ngược, mà Chín khúc hồi lai là đoạn qua lại tấp nập nhất và cũng là điểm đến hấp dẫn nhất. Đặc biệt, thời kì chống Mỹ có các hợp tác xã đò dọc: Bồng Sơn, Sông La, Sông Hương, Tiền Phong... ngoài chuyên chở hành khách và trao đổi hàng hóa, còn là những đội quân vận tải hùng hậu phục vụ chiến trường. Ông Hoàng Xuân Tần- Chủ tịch UBND xã Hà Linh cho biết: Thời đó có nhiều đơn vị bộ đội chủ lực đóng quân trên địa bàn Hương Khê. Riêng Hà Linh có Binh trạm 15 và các đơn vị phòng không... Những đội thuyền trên thường xuyên chở quân, lương thực, vũ khí đạn dược và thuốc men... từ Bến Thủy, Linh Cảm lên, đồng thời đưa đón thương, bệnh binh về an dưỡng... không ít lần qua đây bị máy bay địch ném bom tới tấp, nhưng huyết mạch vẫn đảm bảo thông suốt.
Chín khúc hồi lai, một địa danh đã đi vào lịch sử. Từ ngàn xưa người dân ở đây đã chung sống với lũ. Nói cách khác lũ cũng là một phương tiện giúp họ tồn tại. Tuy vậy, từ khi xuất hiện nhà máy Thủy điện Hố Hô đến nay, cộng thêm rừng tự nhiên bị khai thác cạn kiệt và tình trạng biến đổi khí hậu... lũ lụt đã không còn tuân thủ theo quy luật tự nhiên nữa, nó luôn xảy ra bất thường và luôn chứa đầy hiểm họa.
Giải pháp mà các nhà chức trách đưa ra là hỗ trợ dân xây nhà chòi sống chung với lũ. Tuy nhiên xét cho cùng không khả thi cho sinh hoạt của dân, nhất là đối với người già, trẻ em. Và hoàn toàn phản tác dụng đối với việc sản xuất nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, các hoạt động kinh doanh, phát triển nghề phụ... Bởi sau những trận lũ như vậy, Phương Mỹ không còn được hưởng lợi phù sa và nguồn lợi thủy sản giàu có như trước đây nữa. Ngược lại bao thành quả lao động của bà con đổ ra trước đó biến thành công cốc. Để đảm bảo kế sách lâu dài mang tính bền vững cần phải lập khu tái định cư mới tại những vùng cao ráo, đồng thời mở các mô hình kinh tế phù hợp, tạo việc làm mới cho dân. Bên cạnh đó vẫn phải bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống được tổ tiên họ từng xây đắp lên từ bao đời.
Từ ngày chưa có cầu bắc qua, mỗi khi lũ đến chiếc cầu phao Chợ Hôm nhanh chóng bị đánh trôi, chia cắt hoàn toàn Phương Mỹ với bên ngoài. Thậm chí khi cầu đã được xây dựng tưởng chừng giải quyết triệt để tình trạng trên, nhưng nếu gặp lũ lớn thì hệ thống đường dẫn hai đầu cầu đều bị nhấn chìm dưới biển nước. Chiếc cầu lúc đó chẳng khách gì một gã hề cười ra nước mắt giữa trùng khơi.
Tôi từng bị mắc kẹt hai bên cầu phao Chợ Hôm trong những ngày mưa lũ khủng khiếp, nên phần nào hiểu được sự sống bấp bênh ở đây thế nào. Lóng ngóng ngày trở lại bên sông, bỗng nghe tiếng chuông Nhà thờ Thổ Hoàng ngân lên giữa chiều mưa rừng bàng bạc. Một con thuyền bé nhỏ không biết về đâu đang khuất dần phía cuối rặng Bồông Bồông mà ngỡ như Chín khúc hồi lai đang sụt sùi!
Tháng 9/2025