1. Ông Nguyễn Tiến Thanh đến nay đã có ba tập thơ được xuất bản: Chiều không tên như vết mực giữa đời; Loạn bút hành năm 2021 và Viễn ca năm 2025. Đó là chưa kể đến số lượng thơ ông đã công bố trên các báo khác nhau. Như vậy có thể nói là một sự nghiệp thơ. Nói theo ngôn ngữ của điện ảnh học thì số lượng tác phẩm ấy đủ để tạo thành một “tác giả” (“l’auteur”, theo nghĩa của điện ảnh, khái niệm được khai sinh cùng với tờ Cahier du Cinéma). Đó là điều kiện cần. Giống như Nobel không bao giờ xét đến người viết thơ một bài, văn một quyển. Và trong ý nghĩa ấy, tôi cho rằng tập thơ mới nhất của ông Nguyễn Tiến Thanh, Viễn ca, là bức chân dung đầy đủ nhất của ông, một người thơ hiện đại.
![]() |
| Một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Tiến Thanh - Ảnh: Trang Thụy |
2. Nhưng trước hết xin nói về cái ý nghĩa của khái niệm “hiện đại”: trong tiểu luận này, khái niệm này xin được dùng trong ý nghĩa không phải như một thời đại trong lịch sử mà như một hệ hình trong nghệ thuật. Có lẽ giống như Hégel khi nói về ba giai đoạn của nghệ thuật trong Các bài giảng về mỹ học của ông: giai đoạn tượng trưng, giai đoạn cổ điển và giai đoạn lãng mạn. Đó là ba bước phát triển biện chứng của nghệ thuật và suy rộng ra, có thể là ba bước phát triển biện chứng của thể loại, phong cách hay phương pháp sáng tác. Đương nhiên, hệ hình là một khái niệm của nghệ thuật. Nó xuất phát từ Thomas Kuhn khi nói về sự phát triển của khoa học. Một hệ hình (paradigm) là một hệ thống các quan điểm, lý thuyết, phương pháp và giả định nền tảng được cộng đồng khoa học công nhận trong một thời đại và làm nên tính hợp thức (validity) của khoa học trong một thời đại. Nó quyết định cái gì được coi là khoa học và cái gì không.
Từ khái niệm đó của Kuhn, tôi cho rằng nghệ thuật cũng có các hệ hình của mình. Nó là một hệ thống niềm tin và quan niệm về nghệ thuật được chia sẻ trong cộng đồng thực hành nghệ thuật để tạo nên tính hợp thức của nghệ thuật. Một nhà thơ Lãng mạn tiền chiến và một nhà thơ Hiện thực xã hội chủ nghĩa có thể khác nhau về quan điểm thẩm mỹ. Nhưng họ cùng chia sẻ một quan niệm về cái gọi là thơ, dù có thể bài thơ đó bị coi là thơ dở, thơ phản động, thơ độc hại.
| Nghệ thuật cũng có các hệ hình của mình. Nó là một hệ thống niềm tin và quan niệm về nghệ thuật được chia sẻ trong cộng đồng thực hành nghệ thuật để tạo nên tính hợp thức của nghệ thuật. |
Theo tôi, thơ Việt Nam có ba giai đoạn: Giai đoạn Cổ điển (tương ứng với cái mà Xuân Diệu gọi là “các nhà thơ cổ điển”) là thời đại thơ ca Hán Nôm; Giai đoạn Hiện đại khởi đầu với Thơ mới và Giai đoạn Đương đại, cơ bản bắt đầu vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước khi những thể nghiệm Nhân văn giai phẩm được đúc lại trong Mùa sạch của Trần Dần, một tập thơ mà nhà phê bình Như Huy định vị rất đúng trong phạm vi của Nghệ thuật Ý niệm. Nếu như Giai đoạn Cổ điển gói trong nó cái gọi là thơ ca Trung đại thì Giai đoạn Hiện đại bao trùm lên cả một phổ từ lãng mạn, tượng trưng, siêu thực cho đến hiện thực xã hội chủ nghĩa và Đương đại là khi thơ vận động trong những nguyên tắc của Hậu hiện đại, của Nghệ thuật Ý niệm, Nghệ thuật trình diễn, Nghệ thuật sắp đặt, thậm chí, ra khỏi ranh giới của ngôn từ.
Và ngay ở điểm này, xin được giới thuyết ngay hai điểm:
Thứ nhất, Nghệ thuật không tiến triển theo thuyết tiến hóa kiểu sinh học. Sự ra đời một hệ hình mới không phủ định mà chung sống với những hệ hình đã có. Chẳng hạn, trong nghệ thuật, sự xuất hiện của Sắp đặt, Trình diễn, Video Art... không hề hàm nghĩa rằng hội họa giá vẽ đã “chết”. Thực tế cho thấy những loại hình này cùng tồn tại. Và sự hình dung này cũng không bao hàm tính giá trị thứ bậc cao thấp. Trong thơ thì không thể nói Ngyễn Duy thì hay hơn Nguyễn Bính và Nguyễn Bính thì hơn Nguyễn Du chỉ vì ông sau hiện đại hơn ông trước.
Thứ hai, những hình thái tiêu cực, cực đoan, suy đồi có thể xuất hiện trong bất cứ loại hình nào.
Nói như vậy để thấy rằng không phải cứ Hiện đại thì “cũ” hơn Đương đại và không phải cứ Hậu hiện đại thì suy đồi còn Hiện đại thì lành mạnh.
![]() |
| Triết lý về cái đẹp như một hành vi tự thân, thách thức quy luật hủy diệt của thời gian - Minh họa: Tranh của họa sĩ Jackson Pollock - Ảnh: Bảo tàng Guggenheim |
3. Nói Viễn ca là bức chân dung đầy đủ nhất của ông Nguyễn Tiến Thanh với tư cách một người làm thơ bởi lẽ, đây là tập thơ đa phong cách, tập hợp đầy đủ mọi kỹ thuật hình thức/kiểu thơ của ông và trên hết, thể hiện đầy đủ quan niệm thơ của ông. Điều đó được thể hiện qua hai bài thơ rất đặc biệt tập thơ này: Tự nhiên và Chợt đọc.
Bài Tự nhiên hoàn toàn có thể trở thành một bài hài cú (haiku) điển hình. Hay chính xác hơn, nó có chất liệu, ý tứ của một bài hài cú điển hình: trong rừng sâu, giữa núi, những bông hoa nở dưới ánh mặt trời, xung quanh không có người. Ông Tiến Thanh phát hiện ra cái tứ haiku đó. Ông phát triển tứ thơ theo một mạch triết lý vừa mang tinh thần Thiền tông, vừa mang tinh thần Hiện sinh: cái đẹp, sự sống bất chấp quy luật về cái chết và thời gian. Những bông hoa vẫn sống cuộc đời của nó, vì chính nó, không cần người chiêm ngưỡng, nhìn ngắm, bất chấp số phận sẽ phải tàn héo. Có lẽ sau đó là một triết lý về cái đẹp như một hành vi tự thân, thách thức quy luật hủy diệt của thời gian, một triết lý vừa như một huyền thoại Sysiph, vừa như một thi kệ của Thiền với tinh thần vô úy “Đừng sợ hãi”. Thế nhưng, văn bản thơ của Nguyễn Tiến Thanh lại triển khai một chiến lược ngôn từ mang tính diễn dịch và qua đó, vừa phơi bày, vừa cố định về nghĩa:
| Những bông hoa Vẫn nở trong rừng hoang Trong núi thẳm Không cần ai ngắm Dưới ánh mặt trời Tất cả sẽ mang linh hồn của đời sống Chống lại tháng năm vô tình Đừng sợ hãi Hoa nở để tàn phai. |
Có hai thôi thúc rất mạnh trong chiến lược ngôn từ này: thôi thúc phải diễn dịch ý thơ và thôi thúc của sự triết lý. Thực ra, một người viết haiku sẽ không dùng “không cần ai ngắm” vì bản thân, rừng hoang, núi thẳm đã cho thấy không có ai ngắm và hoa vẫn nở thì đương nhiên sẽ là không phải vì để cho người ngắm, không phải vì bất cứ sự “làm đẹp cho đời” nào. Theo logic ấy, cũng không cần mang linh hồn của đời sống/ chống lại tháng năm vô tình bởi bản thân không người ngắm đã thể hiện sự vô tình. Và cũng không cần “đừng sợ hãi” bởi sợ hay không thì những bông hoa vẫn nở. Haiku giống như thơ Đường không cần diễn dịch. Nói như Phan Ngọc thì đó là thơ của những mối quan hệ, nhà thơ chỉ việc trưng ra quan hệ và triết lý là cái tự đến trong người đọc. Đó là thơ của thời Cổ điển. Chiến lược ngôn từ của ông Thanh mang tính Hiện đại điển hình, đặc biệt là kiểu Hiện đại của một nền thơ mang tâm thức “đại chúng” với sự bài trừ tính đa nghĩa, “biểu tượng hai mặt”, “khó hiểu”, “tối tăm”. Thế nên mọi sự phải được phơi bày. Chiến lược ngôn ngữ đó rất rõ không chỉ ở ông mà còn ở rất nhiều nhà thơ khác thuộc hệ hình này, chẳng hạn như ở Lưu Quang Vũ:
Những dòng thơ thao thức khôn nguôi
Những dòng thơ người viết cho người
Trên bãi bể thời gian tôi viết tiếp
Những dòng thơ như móng tay day dứt
Trên vỏ dưa xanh thắm của mùa hè
Cho kẻ xa nhà mái lá chở che
Cho ngưng lại nhịp đồng hồ quên lãng
Sợi dây mỏng nối liền ta với bạn
Và ban mai trong mắt những con gà...
(Thơ tôi là mây trắng của đời tôi)
Là nghệ sĩ (theo định nghĩa của Hoài Thanh “tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ thuật”) các ông say mê với cái đẹp của ngoại giới, cái đẹp có khi đẹp một cách tự thân. Những dòng thơ như móng tay day dứt/ trên vỏ dưa xanh thắm của mùa hè, ban mai trong mắt những con gà hay những bông hoa nở trong rừng sâu, núi thẳm là như thế. Nhưng là người làm thơ vị tha nhân của một thời đại, các ông không thôi cái thôi thúc diễn dịch để tìm kiếm những “tiếng nói đồng ý, đồng chí, đồng tình”. Cái chất Hiện đại trong ông Thanh cũng như nhiều nhà thơ khác là như thế.
![]() |
| Nhà thơ Nguyễn Tiến Thanh - Ảnh: NVCC |
Nhếu như Tự nhiên là điển hình cho thi pháp thơ của ông Thanh thì có thể nói, Chợt đọc là một tuyên ngôn thơ trọn vẹn của ông. Bài thơ được tổ chức trên một tương phản, bản thân nó là một sự trùng điệp của các phủ định. Cùng với khuynh hướng diễn dịch thông qua sự đầy tràn của những tính từ và những hình dung ngữ được gắn vào hình tượng thơ thì cách nhân lên một ý thơ bằng trùng điệp các ẩn dụ và hình tượng thơ đồng dạng cũng là một khía cạnh rất đặc trưng cho phong cách của ông Thanh, thậm chí, cả khi ông viết tiểu luận, dù là tiểu luận lý luận văn chương và nhất là tiểu luận lý luận văn chương. Có thể hình dung cấu trúc bài thơ theo một hệ tương phản mà quan hệ giữa cột bên phải và cột bên trái là quan hệ phá hủy: cái này phá hủy cái kia:
| Cái lý tưởng | Cái thực tại |
| tính thiện/ lòng tốt/ lương tri/ nhân văn/ thi âm/ nhịp điệu/ giấc mơ (mơ mộng)/ vần/ mơ/ thiên đàng/ nước cất (trong suốt)/ niềm tin/ trái tim | sách đốt đền mua danh sàm ngôn/ ngôn ngữ cay độc và bạo phát/ chất thải/ điên rồ/ ý tưởng hoang đường/ bệnh động kinh hình thức/ không vần/ hoang mang/ lời đường mật/ nước mắt cá sấu/ gói thầu đội giá đúng quy trình nhưng không thể hoàn công |
Văn bản thơ này không nhằm vào chỉ một định nghĩa về thơ. Có thể nói, đây là chất chứa những suy nghĩ của ông Thanh về môi trường thông tin mạng xã hội trong đó có câu chuyện về bạo lực ngôn từ trên mạng xã hội. Nhiều ý tưởng trong văn bản thơ này đã được ông triển khai trong tập tiểu luận nhiều tâm huyết Thời của tạp chí. Tuy vậy, đậm đặc trong văn bản thơ này là một ý niệm về “thơ lý tưởng”. Có một số niềm tin về thơ rất kiên định của Thơ Hiện đại được xuất hiện trong văn bản thơ này: chống thơ không vần, chống cực đoan hình thức, chống sự hủy diệt của nhịp điệu trong thơ. Những giá trị này đã được xuất hiện trong Tranh luận văn nghệ Việt Bắc trong cuộc “xử án” thơ không vần Nguyễn Đình Thi mà trong đó, những kiện tướng của Thơ mới đã buộc Nguyễn Đình Thi phải thay đổi bút pháp của mình sau đó. Thơ với ông Thanh nhất quyết phải là sự thể hiện của trái tim, của tình người, của lòng tốt và các giá trị nhân văn, của những giấc mơ nên thơ. Nó đối lập với cái lý tính, sự giả dối (lời đường mật, nước mắt cá sấu), những thực hành duy hình thức. Trong đời sống văn nghệ ở Việt Nam cuối những năm 90, đầu những năm 2000, sự xung đột của hệ hình Hiện đại và hệ hình Hậu hiện đại cũng được thể hiện trong những cuộc tranh luận về những quan niệm kiểu “sự chân thật trong thơ” (một ý tưởng hoàn toàn Thơ mới và vẫn tồn lưu trong thơ Việt xuyên qua thế kỷ 20) hay về “chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài” trong thơ. Và đương nhiên, đứng trong hệ hình Hiện đại, ông Thanh cũng bảo vệ một giới hạn của những gì được coi là chất thơ. Hành vi phê phán được ông thể hiện rất rõ:
| Những thi hứng định nghĩa thơ bằng chất thải Thâm hụt nhân văn, lạm phát điên rồ Hạ sát thi âm, chôn xác nhịp điệu Ý tưởng hoang đường cấp đông giấc mơ |
Về bản chất, đây là một cuộc chiến dữ dội bảo vệ validity của một hình dung về chất thơ mà trong đó, chỉ một số thứ chất liệu mới được coi là có tính thơ, mới được đưa vào thơ. Văn bản bài thơ Chợt đọc trong ý nghĩa ấy là một chìa khóa quan trọng để hiểu thơ của ông Thanh. Nó là một hành vi lý tính mang tính tuyên ngôn để bảo vệ cho một quan niệm phi lý tính, lãng mạn và duy cảm nhưng nhân văn chủ nghĩa về thơ.
4. Nếu như Viễn ca là tập thơ thể hiện rõ nhất phong cách thơ của Nguyễn Tiến Thanh thì hai bài thơ Tự nhiên và Chợt đọc là hai văn bản tiêu biểu cho thi pháp và tuyên ngôn thơ của ông Thanh, một người thực hành thơ Hiện đại. Trong thực hành thơ của mình, ông đã đi hết mọi giới hạn kỹ thuật của thơ trong hệ hình Hiện đại. Ông thể nghiệm mọi hình thức thể loại của thơ, từ lục bát đến thơ tự do. Lục bát của ông là một cuộc đối thoại với kiểu lục bát Bùi Giáng và Nguyễn Duy, đặc biệt ở giọng điệu thơ trong khi đó thơ tự do của ông là một cuộc đối thoại với Lưu Quang Vũ, Nguyễn Quang Thiều và tất nhiên, kiểu thơ Hoàng Nhuận Cầm. Là một người đề cao làm nghĩa hơn làm chữ, với những quan niệm rất vững chắc về validity của chất thơ, thơ của ông xoay quanh những không gian rất quen thuộc của thơ Việt Hậu Thơ mới: phố và nông thôn, những không gian bình dân, quán cà phê vỉa hè, quán cóc trà đá, sân trường, hoa phượng, cây xà cừ, tiếng ve, men rượu, cà phê đen, cánh đồng, dòng sông... Nhưng ông làm lạ hóa những hệ thống thi liệu đó bằng một sự dư thừa của tính từ và hình dung từ. Trong sự dư thừa ấy có cả những “tà dương”, “tịch dương” (tần suất xuất hiện rất nhiều trong thơ ông), “tịch liêu”, “phiêu bồng” nhưng cũng có cả những kết hợp rất bất ngờ:
Trong rền vang hoan ca miền đất hứa
Ta bắt gặp Huế trầm tư núi Ngự
Hay:
Nhưng thực ra bụi rậm không chỉ là chướng ngại vật
Đó là nơi ẩn nấp
Của những kẻ lang thang
.
Không phải ta ẩn nấp
Ta chỉ ngồi nghỉ, suy tưởng, và mệt đứt hơi.
Đặc biệt, ông tiếp tục logic của Thơ hệ hình Hiện đại khi mở cửa cho ngôn từ nhật dụng và thời sự tràn vào trong thơ. Đó là khi ông viết về “người post vào thương nhớ”: những comment người vừa/ cắt qua miền tê tái; người về like tình muộn; ta follow ảo mộng và cả cái không khí của dịch bệnh cũng được đưa vào trong thơ:
| Này tháng 9, đến đi thôi đừng sợ Nắng vang lừng chiêng trống của thời gian Một buổi trưa tiếng chim tan vỡ Ngày lặng im, phong tỏa cơn buồn. |
Tuy vậy, sự hấp thụ ở đây là theo cách thuộc hệ hình Hiện đại: thơ mộng hóa những dị chất này để biến thành một thế giới độc thoại của nhà thơ. Nó rất khác với tính cách chất vấn, tự lột mặt nạ, và đối thoại của hệ hình Đương đại - Hậu hiện đại.
Trong cái khung của hệ hình Hiện đại, ông Thanh đã thực hành một thứ thơ mà theo đó, thơ là công cụ để giãi bày chân dung con người thơ của ông, một người đứng giữa rất nhiều mâu thuẫn trong cuộc đời, giống như ta - rất tần ngần/ nửa này áo mũ, phong trần nửa kia; luôn có khuynh hướng hoài cảm với những cái xưa cũ, nhưng khung cảnh lãng mạn không bao giờ trở lại nhưng cũng nhiều suy tư, triết lý và đặc biệt, không thôi vương vấn với cái lý tưởng. Ở ý nghĩa này, có thể nói thực hành thơ của ông Thanh suy cho cùng, cũng là một thực hành sống, thể hiện một khát khao được đối thoại, giãi bày và chính điều đó làm nên sức sống lâu bền của hệ hình thơ Hiện đại.