Diễn đàn lý luận

Cấu trúc một ác mộng

Lê Hồ Quang
Tác phẩm và dư luận 12:44 | 07/11/2025
Baovannghe.vn - Lò Mổ mang cấu trúc của một giấc mơ vô thức, vốn được định hình trên một cấu trúc hiện thực: nỗi kinh sợ trước cái ác, sự tàn bạo, vô minh, niềm tin (đầy lãng mạn) về sức mạnh cứu rỗi của cái đẹp, cái thiện, của nghệ thuật. Đấy là một cơ chế tinh thần mạnh mẽ, dựa trên một niềm tin (có lẽ) cũng mạnh mẽ không kém về những giá trị tinh thần ấy...
aa

Chúng ta phải đi qua đêm tối này

(Chương 18 - Hãy đứng dậy)

1. Lời mở

Trong lời mở đầu Lò Mổ (Nxb Hội Nhà văn, 2025), Nguyễn Quang Thiều khẳng định: “Viết chỉ là một hành động mang tính cá nhân. Ngay cả khi những trang viết được công khai với bất cứ hình thức nào cũng chỉ là hành động của cá nhân. Tôi cá nhân hóa toàn bộ Lò Mổ.

Cấu trúc một ác mộng
Ngay khi chính thức ra mắt, "Lò Mổ" đã gây ra những tiếp nhận trái ngược khá gay gắt

Nhưng viết có thực chỉ là một hành động cá nhân? Tôi nghĩ rằng, xét về bản chất sáng tạo, viết trước hết là một hành động cá nhân, bởi trong quá trình viết, tác giả luôn thể hiện nhãn quan, bút pháp và quan niệm riêng về thế giới. Tuy nhiên, khi tác giả “cất tiếng nói” bằng ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ nghệ thuật, họ đã đồng thời tham gia vào một quy ước giao tiếp cộng đồng đặc thù. Một khi tác phẩm bước vào đời sống văn học, nó phải tuân thủ các quy tắc giao tiếp xã hội và chấp nhận những phản ứng trái chiều từ cộng đồng tiếp nhận, diễn giải. Khi đó, từ một hành động cá nhân, viết đã trở thành một hành động xã hội.

Việc Nguyễn Quang Thiều nhấn mạnh tính cá nhân của hành động viết, tính chất “ác mộng” của Lò Mổ và khẳng định “tôi không có hy vọng tìm được cơ hội để chia sẻ câu chuyện này với ai khác ngoài tôi” không chỉ là một cách nói mang tính trữ tình (dù “nói” bằng các ẩn dụ thống thiết là phong cách quen thuộc của nhà thơ này). Có lẽ, sự tiếp nhận trái chiều từ phía độc giả đã được ông lường trước, trước khi trình ra “cơn ác mộng” của mình. Trên thực tế, khi chính thức ra mắt vào cuối năm 2024, Lò Mổ đã gây ra những tiếp nhận trái ngược khá gay gắt. Những tranh cãi xung quanh tập trường ca này có lúc bị đẩy lên đỉnh điểm, buộc tác giả phải lên tiếng nhờ pháp luật can thiệp [1]. Trước đó, tập Sự mất ngủ của lửa (xuất bản năm 1992, nhận Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1993) của ông cũng gây ra những tranh luận gay gắt trong giới chuyên môn và độc giả nói chung [2]... Có thể nói, đấy là cách để tác giả vạch ranh giới và xác lập một giao ước đọc/tiếp nhận với độc giả. Điều này vừa cho thấy quan niệm cá nhân của ông về hành động viết, hé lộ cấu trúc hình tượng đặc biệt của tác phẩm, đồng thời thể hiện sự trải nghiệm và hiểu biết về một cộng đồng diễn giải phức tạp mà ở đó sự viết và sự đọc không phải bao giờ cũng tương thích. Tôi nghĩ hành vi tự giới hạn này không phải xuất phát từ sự kiêu hãnh về phẩm chất cá nhân của cái tôi nghệ sĩ (Tôi là con chim đến từ núi lạ/ Ngứa cổ hát chơi - Xuân Diệu) hay ý thức về quyền uy tuyệt đối của chủ thể trong sáng tạo (Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy - Thanh Tâm Tuyền), mà là một sự tự phòng vệ thì đúng hơn (thực tế những gì xảy ra sau khi cuốn sách ra đời cũng chứng thực rằng sự phòng vệ này là đúng). Mặt khác, ngược lại với mong muốn của tác giả (tôi không muốn ý chí can thiệp vào cơn mộng mị của tôi), nó cho thấy một cơ chế kiểm soát/tự kiểm soát mang tính lý trí rất rõ. Dĩ nhiên, một khi còn phải nói về viết như một nỗ lực “vượt thoát khỏi tự do” thì như một nghịch lý, ta thấy rõ hơn lúc nào hết, cả sự thiếu tự do lẫn sự kiềm tỏa đáng ngại của những thiết chế văn hóa, xã hội đang công khai hoặc ngầm ẩn chi phối đời sống sáng tạo.

Tôi muốn xem Lời mở đầu này như một bộ phận hữu cơ của trường ca Lò Mổ, đường viền ngoài nhưng sắc nét, giàu tính hiện thực của cơn ác mộng về một thế giới “mà tôi đang sống” (Nguyễn Quang Thiều). Nó là một đề dẫn, một gợi ý, một khuyến nghị đáng quan tâm trước khi độc giả bước vào thế giới của Lò Mổ.

2. Thế giới mộng du

Không phải ngẫu nhiên Lò Mổ được viết hoa cả hai chữ - đó là một không gian biểu tượng. 18 chương ứng với 18 đề mục/tiểu chủ đề, đều có tính tượng trưng, gợi mở về một hành trình đời sống, một hành trình ý thức. Bắt đầu từ một câu hỏi về thực tại/hành động sống của con người - Có phải chúng ta tội lỗi và kết thúc là lời kêu gọi thức tỉnh - Hãy đứng dậy.

Không khí của Lò Mổ gợi ấn tượng tựa như Dante khi bước vào cổng Địa ngục trong trường ca Thần khúc của Dante Alighieri:

Qua khỏi đây là xứ thảm sầu,

Qua khỏi đây là đau thương vĩnh viễn!

Qua khỏi đây là thế giới của bọn người vô vọng!

... Hỡi chúng sinh khi bước vào đây, hãy vứt lại mọi niềm hy vọng!

(Địa ngục - khúc III, Nguyễn Văn Hoàn dịch)

Nếu trong Thần khúc, hành trình của nhân vật Dante bắt đầu từ Địa ngục, qua Luyện ngục và cuối cùng đến Thiên đường, thì trong Lò Mổ, hành trình của người kể chuyện bắt đầu từ chương 1, với câu hỏi ám ảnh - Có phải chúng ta tội lỗi; tiếp đến, Chương 2-15 (từ Mộng du đến Thư gửi mẹ) là hành trình mộng du trong cõi Lò Mổ, và phần cuối gồm Chương 3-18 (Phán xử, Lời cầu xin, Hãy đứng dậy) là phần nói về sự sám hối và thức tỉnh.

Hình tượng trung tâm Lò Mổ và xung quanh hình tượng này là bộ ba hình tượng Bò - Ruồi - Người. Bò vừa là nạn nhân của Đồ tể - người; vừa là hình ảnh đồng dạng đau khổ của con người. Ruồi, hiện thân của sự suy đồi, thối rữa, kẻ sống trên máu, phân và sự thối rữa, vừa đóng vai trò tòng phạm, chứng nhân, kẻ đeo bám và kẻ phán xử của Địa ngục. Con người hiện diện trong nhiều vai, là Chàng và Nàng, tượng hình của Adam và Eva, thủy tổ loài người, trong đời sống trần gian lạnh giá; là chủ lò mổ và Đồ tể, nhưng cũng là người viết nên văn bản Lò Mổ và văn bản - đời sống này...

Nếu dừng lại ở hệ thống tên tác phẩm, các tiểu mục, những hình tượng ẩn dụ được tô đậm, phóng đại, được “nói lớn” (đại ngôn) một cách cố ý, không khó khăn gì để nhận ra ý nghĩa tượng trưng và cả những “thông điệp” tư tưởng được gửi gắm trong đó. Tuy nhiên, không dừng lại ở bộ khung giàn giáo ý tưởng hoặc đề mục, tác phẩm đã dẫn dắt ta vào một thế giới của đời sống rộng mở, trùng phức, với lớp lớp suy tư chồng chất và vô số hình ảnh, hình tượng đan dệt từ nhiều chất liệu đời sống, văn hóa, nghệ thuật, thơ ca, tôn giáo, tâm linh... Ở đó, những sự vật, con vật, con người hay hành động cụ thể thoắt trở thành một chỉ dẫn, một ám dụ siêu thực, huyền nhiệm.

Lò Mổ không phải là một biểu tượng tĩnh, bất động. Nó được hình dung như một cõi giao thoa giữa sự sống và cái chết, sự kết thúc và sự tái sinh, ánh sáng và bóng tối, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện...

Lò Mổ không phải là một biểu tượng tĩnh, bất động. Nó được hình dung như một cõi giao thoa giữa sự sống và cái chết, sự kết thúc và sự tái sinh, ánh sáng và bóng tối, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện. Nó cũng được hình dung như một hành trình, một chuyến “Mộng du”, một “Sân ga thời gian”, điểm gặp gỡ giữa chiều đi và chiều đến, quá khứ, hiện tại và tương lai. Cõi không - thời gian ấy vừa là một địa điểm thực tại, khởi điểm hình thành biểu tượng cõi nhân gian (một lò mổ có thực, ở một cánh đồng ngoại ô), vừa là một biểu tượng cho cõi đời, cõi người bất định. Hành trình vào Lò Mổ cũng là hành trình đi vào cõi nhân gian đáng sợ, và ở đó, cái tôi chủ thể “nhận ra một cái gì đó mà tôi chưa từng nhìn thấy, chưa từng xảy ra trước đó” và bản thể của anh ta bị lay động đến tận gốc rễ. Tương tự Dante trong trường ca Thần khúc, nhân vật Chàng có một vai trò đặc biệt. Xét về mặt nội dung, anh ta là người dẫn đường, kể chuyện, hướng dẫn độc giả. Xét về mặt cấu trúc, nhân vật này là yếu tố kết nối tất cả các hình tượng, nhân vật, câu chuyện, các lời thoại, các phần/đoạn của trường ca vào một chỉnh thể, tạo nên sự liền hơi, liền mạch trong cảm xúc, giọng điệu tác phẩm.

3. Những biểu tượng thơ

Đồ tể vừa là nhân vật liên quan trực tiếp đến Lò Mổ, đồng thời, là một hình tượng kép, cùng lúc đóng nhiều vai. Anh ta vừa là kẻ giết bò, như một nghề nghiệp (nghề sát sinh), nhưng đồng thời, anh ta không ngừng suy tư về hành động của mình, suy tư về cách anh ta tồn tại và ý nghĩa của điều đó. Bởi vậy, Đồ tể, trước hết, là kẻ sát sinh tàn bạo, kẻ giết hại những con vật vô tội, và điều đó khiến anh ta “đau đớn”, “kinh hãi”, “buồn nôn”. Trải nghiệm chết chóc luôn là trải nghiệm kinh hoàng, ngay khi đó là kẻ cầm búa như Đồ tể: Con bò đầu tiên bị giết. Mờ mịt chân trời đỏ trên cặp kính. Một làng quê xa như hóa đá. Bão gió. Sóng Thần. Những mái chèo mai táng đại dương. Người đàn bà sinh ra chàng đi tắt qua biển. Không khí chết chóc, như một ám ảnh kinh dị, thông qua các chi tiết, hình ảnh như ruồi, tiếng rống, máu, sự tanh tưởi... phủ ngập thế giới Lò Mổ. Ngay cả hoa hồng, như một biểu tượng của tình yêu, ở đây, cũng được hình dung như những bông hoa máu (hình ảnh này gợi nhớ thung lũng hoa hồng ma ngào ngạt mê mụ mọc lên từ xác người trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh). Nhưng mặt khác, từ góc nhìn phổ quát, anh ta nhận thấy một sự thật chung cục, kẻ giết và bị giết, kẻ cầm búa và kẻ phải chịu nhát búa chí mạng, tất cả đều chung một định mệnh đau khổ: nhát búa của số phận/ Than khóc và chạy trốn chẳng làm được gì.

Chân dung của Đồ tể được phác họa ngay từ đầu, ở chương thứ nhất, với một câu hỏi gốc rễ: Có phải chúng ta tội lỗi? Ám ảnh tội lỗi đã đeo đẳng anh ta từ công việc hằng ngày nơi lò mổ, trở thành câu hỏi dằn vặt về bản thể và bản chất của hiện hữu:

Đôi mắt chúng ta được đưa lên đoạn đầu đài

Chúng ta đã phạm tội trong cách nhìn

.

Cái lưỡi của chúng ta được dẫn lên máy chém

Chúng ta đã phạm tội trong phát âm

.

Bộ óc của chúng ta được lấy ra khỏi hộp sọ

Và đặt lên giàn hỏa thiêu

Chúng ta phạm tội trong ý nghĩ

.

Đôi chân chúng ta bị chôn sống

Chúng ta phạm tội trong cách đi

.

Hai bàn tay chúng ta bị rút móng từng ngón

Chúng ta phạm tội trong viết và ký

.

Đừng tha thứ tôi.

(Lời cầu xin)

Ám ảnh tội lỗi vây phủ đời sống, phá hủy mọi mối quan hệ giữa con người và với thế giới xung quanh anh ta. Hành trình dấn sâu vào Lò Mổ cũng là hành trình tinh thần, tâm hồn con người bị hủy hoại. Từ những cuộc đối thoại với con người (thường là vô vọng, giống như nói với nhau qua vách tường kính, mỗi người theo đuổi một ngôn ngữ, một ý tưởng không liên quan) và với con vật (ruồi, bò...) và Đấng Cao Cả (Người mẹ, Người Cha thiêng liêng; Chúa Jesus...), anh ta tìm kiếm lý do của sự sống, cái chết, lý do sự tồn tại của chính mình, và nhận ra chỉ có thể vượt qua tội lỗi, nỗi đau đớn và sự hủy hoại từ bên trong bằng Đức tin, Hy vọng và Tình yêu thương trong khi bạn đường/đời của anh ta (Nàng) đã trốn chạy, vì không thể có được sức mạnh tinh thần nội tại đó.

Đấy là một con người đau khổ. Chàng mang căn bệnh bất trắc của tâm hồn. Khi chàng quai búa vào đầu chúng ta cũng là lúc chàng quai búa vào chính đầu chàng.

Đồ tể hiện ra trước hết như một con người với nỗi cô đơn tuyệt đối. Hãy chú ý đến mối quan hệ giữa anh ta/Chàng và Nàng, một mối quan hệ đôi lứa lạ lùng: có xót thương, có thấu hiểu, nhưng dường như thiếu hẳn sự chia sẻ. Mỗi người mang một nỗi đau và câu hỏi tự vấn riêng về đời mình. Hãy chú ý mối quan hệ giữa anh ta và chủ nhà trọ/chủ lò mổ. Nếu hiểu nhân vật chủ nhà trọ/chủ lò mổ là hiện thân của cái ác, là kẻ tìm thấy sự hoan lạc trong giết chóc, xem đó như một niềm vui tàn bạo, thì ngược lại, Chàng luôn nhìn thấy ở đó nỗi đau, sự bất lực, kinh hãi, tuyệt vọng và buộc mình phải mở to mắt tìm kiếm câu trả lời cho hành động này. Đó là sự khác biệt căn bản giữa Chàng và chủ lò mổ và cùng những Đồ tể khác, những kẻ “chìm ngập trong đói nghèo, trong rượu, trong u mê”, “trong những đức hạnh giả dối và những tư tưởng rối loạn”. Bởi vậy, không phải con người, mà là những con vật, những kẻ bị chính anh ta sát hại, mới thực sự là kẻ thấu hiểu anh ta: Đấy là một con người đau khổ. Chàng mang căn bệnh bất trắc của tâm hồn. Khi chàng quai búa vào đầu chúng ta cũng là lúc chàng quai búa vào chính đầu chàng. Thực ra, sở dĩ có sự thấu hiểu này là bởi vì Đồ tể đã đặt mình vào vị trí những kẻ nằm dưới búa. Từ góc độ đó, anh ta không còn là Đồ tể, mà còn là kẻ đồng hành, kẻ chịu nạn, kẻ mang trong trái tim sự mẫn cảm, niềm trắc ẩn và cả sự cam chịu. Nhưng điều anh ta thiếu chính là tinh thần chấp nhận số phận bình thản, do đó, đầy can đảm, của những con bò. Do đó, Đồ tể luôn luôn phải đối diện với sự giằng xé, bất an trong sâu thẳm nội tâm, với những câu hỏi ám ảnh bám riết:

- Có phải chúng ta tội lỗi?

- Ta đang đi về đâu?

- Ai đang gọi ta

trên những cánh đồng?

- Ai đang đợi chờ ta

nơi bến bờ cuối cùng của đau khổ?

- Tại sao tôi không rời bỏ nơi này?

- Phải chăng cái chết là trò chơi cuối cùng của chúng ta?

Ở chương 7, cuộc đối thoại giả tưởng giữa nhân vật Đồ tể với Chúa bộc lộ một triết lý rất ý nghĩa: Con người phải tự mình đối diện với mình, với ý thức về tội lỗi, với bổn phận, trách nhiệm và cả sự lựa chọn hành động cá nhân: Chỉ khi con phán xét chính con thì những con rắn trong con sẽ biến mất. Chúa luôn ở trong con người, khi con người là chính mình, khi “biết ngước mắt lên cao bởi nỗi sợ hãi”; biết “tự đứng lên và bước qua bóng tối”, “biết đi về phía ánh sáng”. Ánh sáng và Tự do bắt đầu từ chính nơi con đứng dậy và bước đi trong bóng tối.

Đồ tể còn hiện diện trong tư cách một người viết, một nghệ sĩ, người có khả năng phát hiện ra cái đẹp trong chính những bi kịch đời sống.

Suy tư về nỗi đau của những số phận bất hạnh, niềm kinh hãi trước cái ác, và sự bất lực, tuyệt vọng của chính mình, đó là khởi nguồn triết học, tôn giáo và thi ca. Và điều đó giải thích vì sao Đồ tể còn hiện diện trong tư cách một người viết, một nghệ sĩ, người có khả năng phát hiện ra cái đẹp trong chính những bi kịch đời sống. Anh ta hình dung về bản thân như “một Pharaon. Được mai táng trong hầm mộ cô đơn với toàn bộ ngôn từ của chàng” và hành động viết được xem như là sự kết nối thiêng liêng với linh hồn thế giới mà chính anh ta đã sát hại. Viết, cũng là để kết nối, khai mở chính mình, tạo ra những khả thể tồn tại đạo đức, xã hội, văn hóa, thi ca khác với thực tại đẫm máu trước mắt. Nó tạo nên muôn vàn phác thảo tinh thần trên hành trình con người đi tìm chính mình và bản chất tối hậu của thực tại:

Chàng là ông Vua

Của Bi kịch và Cô độc

Bước nghiêm trang trong bản hòa tấu dàn kèn đồng

...

Không khúc biệt ly

Không lời tuyên thệ

Không lời chúc phúc

.

Lặng câm.

Khi viết về số phận và định mệnh nghệ sĩ, rõ ràng Nguyễn Quang Thiều vẫn chịu ảnh hưởng của những cách nhìn/viết quen thuộc trước đó, chẳng hạn Ch. Baudelaire miêu tả người nghệ sĩ giống như con hải âu, lớn lao, uy dũng nhưng bị xã hội ghẻ lạnh và không hiểu thấu; hoặc loài “thi sĩ điên” trong quan niệm thơ của Hàn Mặc Tử... Có điều ông luôn nhấn mạnh tư cách kép, phức tạp của hình tượng này: anh ta không phải là kẻ ngoài cuộc Lò Mổ, mà là kẻ sống trong đó, nhập tất cả các vai: đồ tể, tình nhân, nạn nhân, chứng nhân... và trên những trải nghiệm thực tế và siêu nghiệm, từ đáy sâu địa ngục Lò Mổ, cất lên tiếng nói, đó là sự hòa giọng của vô số tiếng nói, vô số cuộc đời, tư cách, thân phận: Đã có lúc chàng muốn chui vào tấm da bò/ Để bước đến nhận một nhát búa rung trên đỉnh đầu.../ Để máu rời bỏ thân xác chàng/ Như một đập nước bị vỡ/ Để chàng rời bỏ thế gian nặng nề/ Những khổ đau và tuyệt vọng. Giọng trong giọng. Lời trong lời. Cả những âm thanh siêu linh. Giọng nói ấy, âm thanh ấy, là một biểu tượng. Nó là âm thanh của tưởng tượng nhưng còn thực hơn cả thực tại.

Cấu trúc một ác mộng
Con bò và Đồ tể là một cặp hình tượng quan trọng, mở ra chủ đề và cảm thức tôn giáo đậm nét trong bản trường ca "Lò Mổ"

Con bò và Đồ tể là một cặp hình tượng quan trọng, mở ra chủ đề và cảm thức tôn giáo đậm nét trong bản trường ca này. Chương 18 nói về một đêm Giáng sinh trong Lò Mổ, khi chỉ còn duy nhất Đồ tể đối diện với con bò cuối cùng phải giết. Đó là một định mệnh. Định mệnh của kẻ bị giết và kẻ phải giết. Một định mệnh đau đớn.

Đôi mắt mênh mông và thẳm sâu con bò nhìn chàng

Nó đã chọn chàng, đã gọi chàng và đợi chàng

Giờ đây trên thế gian tối đen chỉ còn con bò và chàng

Chỉ có hai kẻ được giao sứ mệnh thực hiện cái chết cuối cùng trong đêm giá lạnh này.

Hình tượng con bò xuất hiện ngay từ chương đầu tiên và xuyên suốt trong cả 18 chương. Đó là hình tượng nạn nhân, kẻ bị giết, kẻ tuẫn nạn, kẻ phải chịu đựng định mệnh chết đau đớn dưới tay Đồ tể. Nhưng đó cũng là hình tượng của số đông nhân loại, những kẻ cần cù, nhẫn nại, lặng lẽ trên cánh đồng, “tạo nên đời sống của những đường cày, của hạt giống, của ngũ cốc, của nước và nắng”, để “làm cho cánh đồng rộng mãi”, đi đến định mệnh của mình với một thái độ chấp nhận, cam chịu bình thản: Những bước đi trên đất đai nhọc nhằn nhưng đó là định mệnh của chúng ta. Và: Chúng ta chưa từng yêu cầu phải trói. Chúng ta chưa từng yêu cầu phải bịt mắt. Chúng ta không ký vào biên bản trước khi chết. Chúng ta đâu phải tử tù. Chúng ta là những con bò của Tự do và Đức tin đi qua thế gian. Để về tới cánh đồng bất diệt. Chính trong sự cam chịu bình thản đó, nhà thơ nhận thấy một sức mạnh lạ lùng. Sự mô tả của tác giả tập trung vào một con bò đặc biệt. Nó đặc biệt từ dáng vẻ “cường tráng và kiêu hãnh”. Đặc biệt trong cái chết như một nghi lễ: cái khoáy lông trên đầu con bò như bông hoa đang nở. Con bò quỵ xuống như làm lễ, một “nghi lễ linh thiêng trên mặt đất đau buồn”. Trong cách nó bình thản đối diện với cái chết, với cái đầu bị cắt và vẫn mang đôi mắt/ Của một trẻ sơ sinh/ Tinh khôi trong tã trắng. Con vật ấy thấu hiểu bổn phận, nghĩa vụ và chấp nhận kết cục cuối cùng trong Lò Mổ với tất cả sự bình thản và chịu đựng. Trong cuộc đối thoại như ảo giác, người đồ tể nhận ra bài ca của linh hồn con bò, cũng là linh hồn Cõi Thiêng, từ một “giọng nói u huyền trong cái chết”:

Con để lại tấm da

Trĩu buồn manh áo cũ

Con để lại tiếng rống

Reo ca trên cánh đồng

Con để lại cổ họng

Lưỡi dao buồn ngủ sâu.

Cái chết của con bò được hình dung như một nghi lễ. Một nghi lễ đẫm máu. Nhưng người được cứu chuộc lại là Đồ tể, và được cứu chuộc bởi chính kẻ anh ta đã giết. Phải chăng, đây là một hình tượng ẩn dụ cho sự hy tế của Chúa Jesus trên thập giá?

Chàng và Nàng (một cách định danh mang tính ước lệ), gợi nên hình ảnh cặp đôi nguyên thủy Adam và Eva xuất phát từ Sách Sáng Thế, chương đầu tiên của Cựu Ước trong Kinh Thánh. Tên chương 1 - Có phải chúng ta tội lỗi, là một sự kết nối dễ nhận ra với câu chuyện trong Kito giáo, câu chuyện tượng trưng cho “Tội tổ tông” - tội lỗi đầu tiên của loài người khi bất tuân Thiên Chúa. Ám ảnh về tội lỗi ở đây vừa là một ám ảnh nguyên thủy, trong vô thức, đồng thời, là một cảm giác đời sống thực tế của Lò Mổ, khi vây phủ con người là máu bò dính trong tóc và đông như thạch trong kẽ móng tay, hơi nóng của máu hầm hập/ mê man và phủ ngập; là giấc ngủ trong nghĩa địa. Bánh xe tang lăn trên con đường đọng nước; là cảm giác “buồn nôn”, “đau khổ”, “sợ hãi”, “kinh hãi”; cảm giác về một thế giới mà “tất cả như đã chết”. Đấy là một không - thời gian “không của Thế gian không của Thiên Đường”. Là thế giới của Lò Mổ. Của Địa ngục. Ở đó, mỗi cá nhân sống với sự cô đơn, u uất, tàn héo của tâm hồn. Và sống với nghịch cảnh: có đôi có cặp nhưng tuyệt đối cô đơn, vô cảm. Đời sống của họ là nghĩa địa. Vây quanh họ là máu và chết chóc. Giữa họ là kẻ thứ ba, một kẻ lạ, một bức tường thép.

Cùng những lời đối thoại mà thực chất là độc thoại, những mảnh vụn nội tâm vỡ ra và dội lại trong những bức tường tử khí, lặng ngắt, giống như trong kịch phi lý. Mỗi người một khối cô đơn sừng sững. Bất khả giao tiếp, với người khác, và với chính mình. Hoàn toàn mất hết kết nối.

Vật liệu kết dệt nên đời sống của Chàng và Nàng là tội lỗi, bao gồm máu, Đồ tể, sự giết chóc và chết chóc. Là Lò Mổ, con bò bị giết, nghĩa địa, bánh xe tang, cơn buồn nôn, kẻ lạ cưỡng dâm. Nhưng vật liệu cấu tạo nên đời sống đó còn là thứ vật liệu trừu tượng hơn: “ngôn ngữ suy đồi”, “cô tịch và cách biệt”, “đau khổ”, “sợ hãi”, “kinh hãi”, một “kẻ thứ ba” - một dòng nước giá lạnh, một ngọn lửa pha đầy khói, một đạo đức, một món nguội, một con dao, một tòa án, một ân hận... Chàng và Nàng thực chất cũng là một thứ vật liệu - tượng trưng. Cùng những lời đối thoại mà thực chất là độc thoại, những mảnh vụn nội tâm vỡ ra và dội lại trong những bức tường tử khí, lặng ngắt, giống như trong kịch phi lý. Mỗi người một khối cô đơn sừng sững. Bất khả giao tiếp, với người khác, và với chính mình. Hoàn toàn mất hết kết nối.

Bầy ruồi gây ấn tượng về tính chất nghịch dị, tuy vậy, đã xuất hiện khá nhiều trước đó trong văn học nghệ thuật, ví dụ trong vở kịch triết học Những ruồi (Jean Paul Sartre), tiểu thuyết Chúa ruồi của William Golding, Con ruồi của William Blake, hoặc ruồi trong thơ Vũ Thành Sơn...

Trong trường ca Lò Mổ, hình tượng ruồi xuất hiện lần thứ nhất ở chương 3 - Bầy ruồi. Chương này dài 10 trang và được trình bày theo hình thức ngôn ngữ thị giác. Có những trang dày đặc chữ ruồi (trang 26, 27), gợi hình ảnh bầy ruồi bu kín không gian. Có trang được bố trí theo lối gián cách, những chữ/hình ruồi rải rác trên trang giấy hoặc trình bày theo hình thức hiệu ứng chuyển động của cánh bay (trang 25, 39). Cũng có khi, chữ R được cách điệu theo hình ảnh những con ruồi. Cách trình bày văn bản theo hình thức thơ - hình họa này, đã xuất hiện trước đó, chẳng hạn trong thơ G. Apollinaire, hoặc Pedro Xisto... Ở Việt Nam, cách trình bày này đã xuất hiện trong thơ của Trần Dần, hoặc gần hơn, thơ của Từ Huy, Nguyễn Thị Thúy Hạnh... Dẫu vậy, tôi vẫn thấy thú vị với cách trình bày này. Không chỉ lạ hóa ngôn ngữ thơ, nó gợi ra ấn tượng trực quan về thế giới của Lò Mổ, bị xâm chiếm, vây bủa bởi bầy ruồi, đại diện cho sự chết chóc, thối rữa, bẩn thỉu. Chúng bao bọc cả người sống, cả hoa hồng và tình yêu (Hoa hồng phải sống) lẫn xác chết (Phán xử). Tuy nhiên, trong Lò Mổ, ruồi cũng là một biểu tượng đa nghĩa. Chúng là những kẻ tỉnh táo, sòng phẳng và đầy ý thức. Chúng “phán xử công bằng với tất cả những xác chết”. Và bởi vì chúng cũng “biết hướng tới vẻ đẹp”. Và cả sự bất hạnh đi kèm: Chúng ta có tất cả... nhưng chúng ta chẳng có được giấc mơ. Đấy là nỗi đau đớn của chúng ta. Cũng như Đồ tể, với vai trò canh cửa Địa ngục, chúng có một trách nhiệm, một sứ mệnh thực tiễn phải gánh vác:

Chúng ta là những chữ cái

Những chữ cái nguệch ngoạc

Viết cả ngày lẫn đêm

Chúng ta suốt đời phải xếp chữ

Để loại người đọc ra bẩn thỉu

Đọc ra trong sạch

Đọc ra tởm lợm

Đọc ra mù lòa.

Không chỉ là biểu tượng của cái chết, sự thối rữa, bẩn thỉu, cái ác, với cách mô tả này, bầy ruồi còn là hiện thân của sự công chính, của Thiên thần trừng phạt.

4. Chủ đề, cấu trúc và thủ pháp

Lò Mổ là một phức hợp chủ đề, thể hiện qua nhiều chương và trường đoạn, gắn liền với cái nhìn suy tư và những câu hỏi chất vấn không ngừng của người dẫn chuyện về nhiều vấn đề của đời sống. Ví dụ chủ đề tội lỗi (chương 1), chủ đề về tội ác và trừng phạt (chương 2, 16), chủ đề thời gian (chương 4), chủ đề tình yêu và cái chết (chương 5, 11), chủ đề ảo ảnh và thực tại tối hậu (chương 8), chủ đề tự do (chương 14), chủ đề sự sống vĩnh cửu (chương 13); chủ đề sáng tạo nghệ thuật (chương 10); chủ đề đức tin, cõi Thiêng và sự giải thoát (chương 7, 17, 18)... Đây là những chủ đề mang tính triết học, mỹ học, có khả năng gợi nên sự suy nghĩ, liên tưởng và nhu cầu đối thoại đa chiều từ phía độc giả. Với tôi, hệ chủ đề của Lò Mổ là một trong những phương diện gợi hứng thú đọc nhất. Trong thơ Việt Nam hiện đại, tôi hiếm khi gặp được tác phẩm có lối tư duy trừu tượng và cảm hứng nghiêng về những chủ đề triết luận tương tự.

Lò Mổ là một phức hợp chủ đề, thể hiện qua nhiều chương và trường đoạn, gắn liền với cái nhìn suy tư và những câu hỏi chất vấn không ngừng của người dẫn chuyện về nhiều vấn đề của đời sống. Đây là những chủ đề mang tính triết học, mỹ học, có khả năng gợi nên sự suy nghĩ, liên tưởng và nhu cầu đối thoại đa chiều từ phía độc giả.

Nhìn chung, cấu trúc Lò Mổ khá chặt chẽ. Trường ca gồm 120 trang, được chia thành 18 chương, tương ứng với hành trình tinh thần của nhân vật Đồ tể/người kể chuyện trong văn bản, gắn với các điểm dừng suy tư khác nhau. Đấy là một cấu trúc biểu tượng, mô tả hành trình của con người đi từ Lò Mổ đến Thánh Đường, từ ý thức tội lỗi tới Đức tin, niềm hy vọng, tình yêu thương, tới ý thức về ngày Phán xử và hành động thức tỉnh. Cấu trúc mang tính biểu tượng tôn giáo này tạo nên tính chất chặt chẽ, nhất quán từ tổ chức văn bản, đến hình tượng, đến ngôn ngữ, giọng điệu... Như đã phân tích ở trên, những hình tượng như Đồ tể, hay bầy ruồi, những con bò, bò mẹ và bê con... đều là những biểu tượng đa nghĩa. Về cơ bản, điểm nhìn trong trường ca là của người kể chuyện/Đồ tể; sự thay đổi, chuyển dịch điểm nhìn, (ví dụ ở Chương 12, 13 được nhìn từ điểm nhìn của những con bò) nhằm tạo nên sự sinh động, đồng thời nhấn mạnh khả năng hóa thân, đồng cảm sâu sắc của người kể với nỗi đau của kẻ khác, điều cốt tử tạo nên sự thức tỉnh quan trọng, sâu xa, tự bên trong của anh ta.

Thế giới Lò Mổ được cấu trúc dựa trên trục tương phản, đối lập. Ví dụ, ở chương 1, sự tương phản, đối lập này được thể hiện trong các cặp hình ảnh, sự vật, tính chất vừa song hành vừa đối lập, ví dụ anh/em, con bò/mùa thu... Cụ thể hơn, trong hình tượng trung tâm của tác phẩm, con bò, đó là sự đối lập giữa hình ảnh phân, nước tiểu, máu, tiếng rống hấp hối và một bên là hình ảnh đôi mắt mở to dịu dàng. Buồn bã. Không bao giờ rơi lệ. Nhìn rộng ra, là sự đối lập giữa cảnh lò mổ, máu chảy ròng ròng, những chiếc đầu bò bị cắt rời và những tấm da bò bị lột cùng hơi máu tanh tưởi, “hầm hập” và khung cảnh “một ban mai tĩnh lặng”, “ô cửa mùa thu bạt ngàn mây trắng”. Đó là một cảnh tượng, đúng hơn, một tổ hợp cảnh tượng nghịch dị, mở đầu cho thiên bi kịch của đời sống:

Ô cửa mùa thu bạt ngàn mây trắng

Mây chống lại sự hình dung của chàng

.

Đấy dòng sông

đấy cây

đấy bồ câu

đấy xác chết

đấy hoa nở

đấy mây

.

Ô cửa mùa thu...

Xa xôi. Thổn thức. Mê dụ. Cần cảnh giác.

Sự song hành, sóng đôi thể hiện trong các cặp hình ảnh/hình tượng, ví dụ Lò Mổ - Thánh Đường; Chàng - Nàng; Mẹ - Cha, ánh sáng - bóng tối; Thiên đường - Địa ngục... hoặc trong hình thức lời đối thoại, ví dụ cuộc đối thoại giữa Chàng và Nàng ở chương 9. Ở đây, sự đối thoại thực chất là độc thoại, hai lời thoại song song, phân mảnh, không có sự liên kết nào. (Một gợi ý thử nghiệm thú vị: tách lời thoại từng nhân vật, ta sẽ có những bài thơ trữ tình hoàn toàn độc lập). Hình thức này nhấn mạnh tính chất cô lập, phân rã, cô đơn toàn phần, tuyệt đối của con người hiện đại.

Cấu trúc một ác mộng
Thế giới "Lò Mổ" được cấu trúc dựa trên trục tương phản, đối lập

Điệp (từ ngữ, hình ảnh, cú pháp, cấu trúc...) được Nguyễn Quang Thiều sử dụng thường xuyên, tạo nên nhịp điệu và giọng điệu mạnh mẽ, trang trọng, đầy âm vang:

- Gọi chàng - loài thú ăn thịt dụ con mồi

Gọi chàng - trăng gọi thủy triều

Gọi chàng - tiếng cổ xưa thức dậy

- Đỏ tối những bức tường. Đỏ tối chum sánh. Đỏ tối bóng đèn. Đỏ tối thớt. Đỏ tối dao. Đỏ tối chìa khóa. Đỏ tối gốc cây gần. Đỏ tối chảo luộc. Đỏ tối xe vận chuyển. Đỏ tối tiền trả công. Đỏ tối biên lai. Đỏ tối chứng minh thư. Đỏ tối những đứa trẻ.

- Những chiếc búa như đúc bằng máu. Giữa trung tâm thành phố. Một bức tường dựng lên. Một con bò rướn người. Một chiếc búa vung cao. Một xô máu bò nghiêng đổ. Những bầy quạ bóng đêm. Uống mê man. Gào thét mê man. Ngửa cổ hát mê man. Chúng bay mộng du trong cơn khát. Tất cả rừng rực đỏ. Thành phố của những tiếng rống. Cửa hiệu tràn ngập những búa. (trang 23)

- Tự do làm cho chàng bơi được trong nước như cá

Tự do làm cho chàng bay trên bầu trời như chim

Tự do làm cho chàng tỏa sáng trong lửa mà không bị thiêu cháy

Tự do làm cho chàng tan trong đất mà không phải mục nát

Tự do làm cho chàng đã chết vẫn trò chuyện được với thế gian.

Lò Mổ là một thế giới bao gồm các đại cảnh không - thời gian nối tiếp nhau. Đấy không chỉ là không gian đời sống bên ngoài mà còn là không gian bên trong, là đời sống tinh thần, tâm linh của con người, cũng phức tạp, lớn lao và kỳ vĩ như chính vũ trụ. Không gian ấy thường được tác giả khắc họa và nhấn mạnh bằng “âm nhạc siêu thực” và “ánh sáng lộng lẫy”. Ông cũng sử dụng nhiều thủ pháp để phi thường hóa, lý tưởng hóa hình tượng, nhân vật. Câu thơ mang xu hướng văn xuôi hóa, thường kéo dài, chia làm nhiều ngữ đoạn, chạm khắc một cách tỉ mỉ, chi tiết hình ảnh, hình tượng. Điều này góp phần tạo nên nhịp điệu riêng trong thơ ông: mạnh mẽ, bay bổng, miên man, trùng điệp.

5. Vật liệu thơ và mỹ học của cái đẹp “khủng khiếp”

Như đã phân tích ở trên, vật liệu của Lò Mổ thực chất bao gồm nhiều loại. Nhóm vật liệu thứ nhất, hiển lộ ở bề mặt văn bản, thường gây tranh cãi, là các từ ngữ, hình ảnh mang tính tả thực, thường gợi cảm giác tầm thường, hoặc bất nhã, đáng sợ, ví dụ sự vật, sự việc, hình ảnh đời sống tầm thường, dung tục (lò mổ, ruồi, bò, máu, cái đầu bò bị cắt, bộ phận sinh dục, tiếng rên, rống...); tình dục; bạo lực (giết chóc, cưỡng dâm...)... Phần lớn các ý kiến phản đối tập trung vào lớp vật liệu này. Tuy vậy, Lò Mổ không chỉ được kiến tạo từ các lớp vật liệu này. Bên cạnh chúng, còn có nhóm vật liệu thứ hai, thường được xếp vào lớp ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ nghệ thuật, ví dụ: mùa thu, cánh đồng, mây trắng, hoa hồng, giấc mơ, thi ca... Tác giả cũng sử dụng các vật liệu từ tôn giáo, cụ thể là Kito giáo, như linh mục, Thánh đường, Ngày Phán xử, Chúa Jesus... nhằm tạo nên màu sắc huyền nhiệm và sự hiện diện của Cõi Thiêng trong tâm thức. Có thể nói, Nguyễn Quang Thiều chịu ảnh hưởng của mỹ học Kito giáo khá đậm nét. Tuy nhiên, trên thực tế, những vật liệu này, khi được lựa chọn và đưa vào tác phẩm, chúng đã được tổ chức, sắp xếp lại theo một trật tự mới. Đó là một cảm hứng lãng mạn bay bổng và tư duy thơ vạm vỡ, nghiêng về cái đẹp lớn lao, cao cả, kỳ vĩ. Trong Lò Mổ, đấy là trật tự được tạo nên bởi một quan niệm, tư tưởng nhân sinh, thẩm mỹ nhất quán, được ý thức một cách mạch lạc: “Tinh thần mang theo trong Lò Mổ là một câu hỏi: đời sống tôi đang sống có thực là một đời sống? Đó là câu hỏi của tôi và có thể tôi không trả lời được câu hỏi đó. Nhưng với tôi, điều quan trọng nhất là tôi đã cất tiếng hỏi... và trong cơn ác mộng của mình, tôi lại bước vào lò mổ một lần nữa”. Chính ở đây, cần tính tới cái tư tưởng nghệ thuật ẩn sau văn bản, nhưng chi phối tất thảy, từ ngôn từ, hình ảnh, biểu tượng đến cấu trúc, nhịp điệu của tác phẩm như một loại vật liệu đặc thù. Cần nhìn Lò Mổ như một cấu trúc chỉnh thể mà các chi tiết, yếu tố vật liệu kia đã được biến thành các chất liệu, phương tiện gia cố, kết nối thành một tổ chức, cấu trúc rộng lớn, bền vững và cũng trừu tượng hơn - cấu trúc của một hành trình tinh thần, cảm xúc, tư tưởng của cái tôi chủ thể. Lò Mổ, như vậy, không chỉ mô tả cái hành trình thức tỉnh của con người trong đời sống thực tại, không chỉ là sự phân tích, lý giải đời sống mà còn là sự tự giải phẫu tinh thần bên trong của chủ thể trữ tình với vô số lời tự vấn, chất vấn. Lò mổ ấy là lò mổ nhân gian và cũng là lò mổ nội tâm cá nhân.

Trường ca Lò Mổ là sự đẩy tới những nung nấu trong ông, trong một thời gian dồn nén kéo dài, bùng nổ thành một hình tượng lớn tập trung tư duy, bút pháp và mỹ cảm cá nhân.

Đặt trong bản trường ca, dưới áp lực của cấu trúc chỉnh thể, ngay cả những vật liệu có tính tả thực ban đầu cũng đã được cấp thêm những lớp nghĩa mới, rộng lớn hơn chính nó. Đây cũng là kiểu tư duy và cấu trúc ngôn từ, hình tượng quen thuộc trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều trước đó, nhất là trong những bài thơ dài như Nhịp điệu châu thổ mới, Bài ca của những con chim đêm, Hồi tưởng, Nhân chứng của một cái chết, Cây Ánh Sáng... Có thể nói, trường ca Lò Mổ là sự đẩy tới những nung nấu trong ông, trong một thời gian dồn nén kéo dài, bùng nổ thành một hình tượng lớn tập trung tư duy, bút pháp và mỹ cảm cá nhân.

Lò Mổ gây tranh cãi bởi những vật liệu có vẻ tầm thường, xấu, ác, bất nhã, phi thơ của nó. Nhưng một sự thực khác là Nguyễn Quang Thiều rất quan tâm đến cái đẹp trong đời sống và nghệ thuật (ông có nhiều bài thơ viết về chủ đề này, ví dụ Cái đẹp, Sự chuyển động của cái đẹp...). Trong Lò Mổ, khi tập trung nói về một cơn ác mộng, thế giới của cái xấu, cái ác, của sự tàn bạo và phi nhân tính, ông vẫn nhận ra một điều gì đó khác biệt, ở trong thế giới ấy và vượt lên, cao hơn thế giới ấy:

Đẹp khủng khiếp

Máu con vật trong nháy mắt liếm sạch lưỡi dao

Hơi nóng và máu hầm hập

Mê man và phủ ngập

...

Bọn Đồ tể cắt con bò để lột da. Đôi mắt vẫn đẹp vậy. Lúc nhìn đôi mắt ấy, chàng thấy Thi ca đi qua. Có cái gì đó vừa đổi thay hơn mọi cuộc cách mạng trong chàng.

Nếu ở những chi tiết đầu (gợi nhớ chi tiết chém treo ngành trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Tuân, gợi nên cảm giác duy mỹ đến vô luân), thì thực ra, tôi nghĩ, trong thơ Nguyễn Quang Thiều, cảm giác đẹp này vẫn gắn với đạo đức, vì vậy, đây là ấn tượng đẹp và khủng khiếp hơn là mô tả sự cực đại của cái đẹp. Hai cảm giác trái ngược đó thường tồn tại trong thơ Nguyễn Quang Thiều, thường được ông, bằng các thủ pháp mô tả phóng đại, khoa trương, đẩy tới đỉnh điểm - đỉnh điểm về cái đẹp và đỉnh điểm về cái ác, sự tàn bạo. Tuy nhiên, thường gặp hơn, ấy là sự đối lập và chia tách hai phương diện này. Đó là lý do nhân vật người dẫn truyện/trữ tình nhìn thấy đôi mắt bò lặng lẽ và cô đơn/ khôi nguyên và huyền bí - biểu tượng của cái đẹp tuyệt đối, lý tưởng, không thể xâm hại - trên cái đầu bò đã bị cắt rời đặt trên đá lạnh, giữa máu me, ruồi nhặng, tanh tưởi. Thi ca ở đây hiện diện như một sức mạnh tinh thần nội tại, đối lập và vượt lên cái chết, sự tàn hoại, đối lập và vượt lên xấu, cái ác. Và ở đó, cái đẹp gắn với cái cao cả, cõi Thiêng và sự siêu linh.

Cấu trúc một ác mộng
Thơ là thế giới của những ám ảnh, những giấc mơ, những cơn ác mộng, đẹp một cách đau đớn

Tôi muốn nói thêm, vật liệu để kiến thiết nên thế giới này thường mang tính đối nghịch. Một bên là những vật liệu mang tính nguyên thủy, thuần túy của thơ ca (theo cách nhìn truyền thống): mùa thu, sương mù, giấc mơ, ban mai tĩnh lặng, đồng cỏ, ái tình, đôi mắt, những câu thơ, đầm sen, ô cửa mùa thu bạt ngàn mây trắng...; một bên là những vật liệu của thực tại (từ góc nhìn chủ thể tác giả): lò mổ, máu bò dính trong tóc và đông như thạch trong kẽ móng tay; phân, nước tiểu, máu mũi, con bò bị giết, cắt cổ, xả thịt, cái đầu bò bị cắt để trên phiến đá lạnh, kẻ lạ cưỡng dâm, buồn nôn, đau khổ, kinh hãi, kích động... Sự kết hợp này tạo nên một thế giới nghịch dị, tựa như thế giới của Hoa ác trong thơ Ch. Baudelaire. Ở đây, đã hiển lộ quan niệm về một thế giới tượng trưng, ở đó, có thể tìm thấy thơ/tính thơ (đúng hơn, tìm thấy của thơ) chính trong nỗi đau, sự tuyệt vọng, sự trụi trần, tàn bạo của thế giới. Thơ là một thế giới khác, cất lên từ hiện thực, nhưng tồn tại như một đối ảnh, đồng thời rộng lớn và mênh mông hơn. Đấy là thế giới của những ám ảnh, những giấc mơ, những cơn ác mộng, đẹp một cách đau đớn - “một cái gì đó đau đớn, bi thương, kỳ vĩ”, “Đẹp khủng khiếp”.

Nếu phần lớn những tác giả trong dòng chủ lưu của thơ Việt Nam hiện đại thường giới hạn cái đẹp trong cái... đẹp, cái thi vị (đúng hơn là trong quan niệm về cái đẹp được chấp nhận rộng rãi), thì Nguyễn Quang Thiều (và một số tác giả cùng thế hệ như Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Inrasara, Đặng Thân... hoặc trẻ hơn, Phan Thị Vàng Anh, Lý Đợi, Bùi Chát...) không ngần ngại mở rộng giới hạn đó và từ rất sớm, trong sáng tác của ông, chẳng hạn Sự mất ngủ của lửa (1992) có xu hướng tìm kiếm cái đẹp trong cái xấu, cái tầm thường và hướng đến lối biểu đạt tượng trưng, trùng phức. Một mặt, điều này xuất phát từ một sự thôi thúc bên trong: tìm kiếm một cách biểu đạt mới về thực tại, một thực tại đời sống đầy lo âu, bất an, và do đó, cái xấu, cái ác cũng phải trở thành một đối tượng, phạm vi hiện thực cần khai thác, phản ánh. Với cái nhãn quan mang tính duy cảm, duy mỹ, ông đồng thời nhận ra trong cái xấu, cái ác những sắc thái, vẻ đẹp mới, đầy ám ảnh, nghịch dị, thậm chí kinh dị nhưng không phải không gây choáng ngợp. Cái đẹp của nghệ thuật, của thơ giờ đây được mở rộng, xé bỏ nhãn dán về cái đẹp, cái nên thơ, nó trở nên đa dạng, đa sắc thái, thậm chí trở nên đầy khiêu khích, thách thức. Nó có thể gây những ấn tượng mỹ cảm mới, đầy gai góc, bạo liệt, thách thức. Thực ra, đây là một cảm quan khá quen thuộc trong thơ hiện đại chủ nghĩa phương Tây - cảm quan về cái đẹp nghịch dị. Như những bông hoa ác của Ch. Baudelaire, mỹ cảm hiện đại chủ nghĩa cho Nguyễn Quang Thiều nhận ra, bên cạnh vẻ đẹp của những đám mây mùa thu là vẻ đẹp của những con bò, của ruồi nhặng. Của máu và chết chóc. Vẻ đẹp của cánh đồng “nở bạt ngàn những bông hoa máu” (hình ảnh máu ở đây gợi nhớ trường ca Thời tái chế của Mai Văn Phấn hoặc nhiều bài thơ Nguyễn Bình Phương) hay “lưỡi dao buồn ngủ sâu” trong cổ họng con bò đã chết... Nói cách khác, ông đã tìm thấy thơ, thấy cái đẹp từ trong cơn ác mộng, trong sự bùng vỡ của vô thức.

6. Cái Bi, đức tin và sự cứu rỗi

Có thể nói, cái Bi, như một phạm trù mỹ học, là một phương diện đặc thù tạo nên thế giới nghệ thuật của Lò Mổ. Ý thức về cái Bi, trong Lò Mổ, trở thành một nền tảng của sự tồn tại. Ý thức về cái Bi này thể hiện qua ý thức về thực tại đời sống như một lò sát sinh đầy phi nhân và phi lý, nhưng không thể chối bỏ. Điều này dẫn con người đến với ý thức về mình như một hữu thể hữu hạn, đầy những giới hạn, vô minh và tội lỗi, vừa là “tội tổ tông” đồng thời cũng là tội lỗi bởi khi sống, là bắt đầu sự xung đột không ngừng với thế giới, với tha nhân, với động vật và tự nhiên.

Thi ca, triết học và cả tôn giáo đã được kết hợp để tạo ra thế giới thơ của Lò Mổ. Ở đây, có thể thấy xu hướng tìm cái đẹp trong cái ảo, cái đẹp trong cái mộng mị, cái đẹp trong cái xấu, cái ác. Đó là kiểu tư duy của chủ nghĩa hiện đại, nghiêng về tượng trưng, siêu thực. Cái đẹp ở đây, do vậy, gắn liền với cái nghịch dị. Chất thơ vừa mang tính cao cả, lớn lao, vừa mang sắc thái bí ẩn, huyền nhiệm.

Sống với tư cách của một con người, một cá nhân là bắt đầu của tội lỗi, đúng hơn, là bắt đầu ý thức về tội lỗi và khát vọng tìm hiểu về sự thật, về thực tại tối hậu. Điều này tạo ra một sắc thái bi kịch, bi đát, khủng khiếp, kinh hoàng treo lơ lửng và bao bọc chung quanh đời sống con người, một cái gì đó lạ lùng, đầy đe dọa và không thể trốn thoát. Trong tác phẩm này, không khí ấy thể hiện qua các biểu tượng như ruồi, máu, sự tanh tưởi, cảm giác chết chóc... bầu không khí đích thực của lò giết mổ. Là một giấc mơ, một cơn ác mộng, Lò Mổ vẫn khiến ta giật mình toát mồ hôi bởi phần bóng tối đầy chết chóc của nó. “Cái bi xuất hiện trong sự đấu tranh, trong thắng và bại, trong tội lỗi. Nó cũng là sự lớn lao của con người khi thất bại. Nó bộc lộ trong ý chí muốn biết sự thật một cách vô điều kiện như là sự bất ổn sâu xa nhất của cái đang tồn tại” [3]. Trong Lò Mổ, con người ý thức về tội lỗi và hướng tới sự khai minh, sự giải thoát. Nhưng sự giải thoát ấy không phải như một quy luật được sắp đặt từ Đấng Tối Cao hay một lực lượng thống trị siêu hình mà là một sự đấu tranh tự bên trong, với bóng tối vô minh, tàn bạo, “con rắn trong chính nội tâm cá nhân”, trong hành vi tồn tại như là tự ngã của mình. Sống, như vậy là một cuộc đấu tranh dữ dội không ngừng với chính mình, một cuộc đấu tranh mà rốt cuộc kết quả có thể chỉ là những câu hỏi không có lời đáp và cái chết. Nhưng chính sự hoài nghi, bất an về thực tại trước mắt, mong muốn tìm kiếm sự thật, cái thiện, lẽ công bằng trong thế giới của Lò Mổ mới khiến con người càng trở nên hoài nghi và bất an, sự giằng xé càng trở nên mãnh liệt, đau đớn hơn, đó là nguồn gốc của cảm giác tội lỗi, căn nguyên của cái Bi, và cũng là điều nâng nhân cách của con người lên một tầm vóc nhân bản và cao thượng hơn. Sự giải thoát ấy, dưới ngòi bút của Nguyễn Quang Thiều, gắn liền với Đức tin và hướng tới một bản ngã siêu việt. Như vậy, thi ca, triết học và cả tôn giáo đã được kết hợp để tạo ra thế giới thơ của Lò Mổ. Ở đây, có thể thấy xu hướng tìm cái đẹp trong cái ảo, cái đẹp trong cái mộng mị, cái đẹp trong cái xấu, cái ác. Đó là kiểu tư duy của chủ nghĩa hiện đại, nghiêng về tượng trưng, siêu thực. Cái đẹp ở đây, do vậy, gắn liền với cái nghịch dị. Chất thơ vừa mang tính cao cả, lớn lao, vừa mang sắc thái bí ẩn, huyền nhiệm.

Lò Mổ là một bản bi ca và đồng thời, cũng là một bản tráng ca về đời sống. Bởi trên cái nền Lò Mổ đầy bóng tối, giá lạnh và máu me, chết chóc, thi sĩ vẫn đủ niềm tin để rao giảng về cái thiện và cái đẹp, về tự do và sức mạnh của tình yêu thương sẽ cứu rỗi con người. Tôi nghĩ, phải can đảm lắm và cũng phải lãng mạn lắm mới có thể đi đến kết thúc này. Tuy nhiên, việc tác giả lựa chọn hướng tới tiếng gọi của đức tin, hy vọng và tình yêu, xem đó như giải pháp tối hậu cho tồn tại hữu thể, thì nhìn từ góc độ thực tại, lựa chọn đó tự nó cũng bộc lộ những giới hạn. Khi nói đến việc tiếp cận cái Bi như một ý niệm quy giản, tư biện, Karl Jaspers đã cảnh báo: “Nó không mang lại sự lý giải toàn triệt về thế giới. Nó không thể làm chủ sự đau khổ phổ quát, nó không thể nắm bắt toàn bộ sự khủng khiếp và sự bất khả giải của kiếp làm người”. Và (về hướng giải thoát mang tính biểu tượng này), “khi làm như thế, thế giới quan này thu hẹp tầm nhìn của ta lại. Bởi trong chừng mực ta thấy mình được giải thoát, thì thực ra, ta đã nhắm mắt trước những hố thẳm khủng khiếp của thực tại” [4].

7. Từ viết đến đọc

Đặt trong hành trình sáng tác của Nguyễn Quang Thiều, Lò Mổ vừa cho thấy sự tiếp nối các tác phẩm trước đó, vừa phát triển lên tầm cao mới, nhưng vẫn nhất quán với kiểu tư duy thơ giàu tính tượng trưng và triết luận. Sức hấp dẫn của tác phẩm này nằm trong sự gân guốc của ý tưởng, sự mãnh liệt của cảm xúc, trí tưởng tượng và sự bề thế, lớn lao, siêu thực của thế giới hình tượng. Là một trường ca hiện đại, Lò Mổ, nhìn từ góc độ này, cũng chính là một giấc mơ kỳ vĩ của Nguyễn Quang Thiều, hướng về cuộc đời, con người và nghệ thuật.

Cấu trúc một ác mộng
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

Tuy nhiên, việc coi trọng mục đích và nhu cầu chuyển tải những “thông điệp lớn” về tư tưởng trong thơ cũng có mặt trái của nó. Để nhấn mạnh các quan niệm, tư tưởng đạo đức - thẩm mỹ, như đã phân tích ở trên, Nguyễn Quang Thiều thường dùng đến thủ pháp cường điệu, tương phản, trùng điệp. Điều này kéo theo hệ quả là tính khoa trương, ồn ào và trùng lặp. Nhằm tạo nên tính ám gợi, tượng trưng ở một số chương, tác giả đã sử dụng lại một số hình ảnh ẩn dụ quen thuộc (ví dụ sân ga thời gian, hoa hồng phải sống, đôi mắt thiên thần, hầm mộ ngôn từ...), gây cảm giác hoa mỹ, thậm chí sáo rỗng (may mà các hình ảnh - tiêu đề này sẽ được mở rộng, cá biệt hóa trong nội dung các chương). Có khi ông dùng cấu trúc diễn đạt mới, nhưng lại gây cảm giác lắp ghép vụng về hoặc tù mù về nghĩa (chẳng hạn những đàn ông, những đàn bà, con bò mùa thu...). Xu hướng ưa thích tính từ và sự nhịp nhàng kéo theo những cách diễn đạt “nịnh tai” nhưng có phần dễ dãi và dài dòng (Hoan lạc và đắng cay. Thánh thiện và trần tục. Trong sáng và tăm tối. Nhân hậu và tàn ác. Rộng lượng và hẹp hòi...). Lò Mổ có nhịp điệu, giọng điệu đầy âm vang, thống thiết, có khả năng lay động mãnh liệt và lôi cuốn người đọc nhanh chóng “nhập thân, nhập hồn” vào thế giới sử thi của tác phẩm. Tuy nhiên, mặt trái của nó là sự du dương và đơn điệu. Điều này, một khi bị đẩy quá ngưỡng, vô tình biến thơ trở thành diễn đàn độc thoại của tác giả. Về cơ bản, tâm thức sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều vẫn là tâm thức hiện đại chủ nghĩa, dù ông có sử dụng một số thủ pháp hậu hiện đại như phân mảnh, cắt dán, liên văn bản... Thế giới sử thi này chủ yếu mang giọng điệu bi ca trầm thống, hoàn toàn thiếu vắng những sắc thái như mỉa mai, châm biếm, nhạo báng, giễu nhại... Nó kêu gọi con người nhập vào từ trường của nó hơn là khiêu khích, nhạo báng, chối bỏ. Nó lay tỉnh, giục giã hơn là gây hấn, phản tỉnh. Thực tế, trong trường ca này (và phần nhiều tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều), tham vọng hướng tới một “đại tự sự”, một “giấc mơ lớn”, “bài ca lớn” về thế giới và con người bộc lộ rất rõ. Tính chất khái quát, tượng trưng này sẽ xóa mờ đi tinh thần phản biện trực diện, cần thiết, đem lại cảm giác như đấy là câu chuyện của vĩnh cửu, của muôn đời. Tách riêng ra, với tư cách một cấu trúc văn bản độc lập, quả thực Lò Mổ có nhiều ưu điểm về mặt tư tưởng, thi pháp. Tuy vậy, khi đặt trong bối cảnh xã hội hiện tại, có thể thấy giải pháp được tác giả đề xuất ở cuối tác phẩm vẫn là giải pháp mang tính tượng trưng - tôn giáo và tính lý tưởng hóa hơn là một gợi ý có tính thực tiễn về mặt đạo đức, xã hội.

Tất cả những đặc điểm nói trên (bao gồm cả những ưu điểm lẫn giới hạn) đã góp phần trong việc tạo nên một phong cách thơ riêng biệt, nhất quán của Nguyễn Quang Thiều. Đọc ông, là đọc tất cả những đặc điểm ấy. Đấy là những đặc điểm tạo nên sự phân chia, thậm chí, đối lập gay gắt trong tiếp nhận của độc giả. Về điều này, có lẽ cũng cần nói thêm. Khi đọc thơ, cái chúng ta tiếp xúc trước hết là tác phẩm và với thế giới nghệ thuật được kiến tạo trong đó. Đấy là thế giới hình tượng được cấu trúc theo một kiểu tư duy, một quan điểm thẩm mỹ và bút pháp nghệ thuật tương ứng. Đọc một tác phẩm thơ (và nghệ thuật nói chung) là đọc một chỉnh thể trọn vẹn. Do vậy, khi tiếp nhận, đánh giá tác phẩm, dù về ưu hay nhược, cần xem xét trong cấu trúc tổng thể, trong tính hệ thống của nó. Tất nhiên, hệ thống này bao gồm cả cấu trúc trong văn bản (chủ đề, hình tượng, ngôn ngữ...) và cả cấu trúc ngoài văn bản (bao gồm văn bản, tác giả, độc giả, đời sống văn hóa, xã hội...). Thực tế là, khi đọc một văn bản thơ, nhất là thơ đương đại, ta khó lòng có thể gạt ra ngoài hoàn toàn tư cách con người tiểu sử của tác giả, cũng như khó lòng đòi hỏi về một thứ “thơ thuần khiết” hay “thi sĩ thuần khiết”. Sự “thuần khiết” này, trên thực tế, là một ảo tưởng. Sự liên hệ, đối chiếu giữa hình tượng tác giả - chủ thể sáng tạo trong tác phẩm với tác giả - con người tiểu sử ngoài đời có thể đến rất tự nhiên và có thể giúp lý giải đúng hơn, sâu hơn về tác phẩm. Có lẽ vì vậy mà cách đọc này được không ít người lựa chọn. Tuy vậy, không nên/không được đánh đồng hai vai trò, tư cách này của người viết. Điều này có thể dẫn đến những yêu cầu, đòi hỏi lạc hệ thống, “bỏ bóng đá người”, hoàn toàn sai lệch với bản chất tiếp nhận nghệ thuật.

Tôi cho rằng, đóng góp thực sự của một tác giả, trước hết từ sự táo bạo, mới mẻ trong quan niệm, tư tưởng, trong sự “cá nhân hóa” hình tượng và ngôn ngữ, bút pháp của mình. Điều đó không chỉ đem lại giá trị và thành tựu cho người viết mà còn làm đa dạng và giàu có cho nền thơ, đáp ứng nhu cầu tinh thần vốn dĩ hết sức khác biệt từ phía độc giả. Thơ Việt Nam hiện đại có sự góp mặt của nhiều thế hệ, tên tuổi với những cảm hứng, khuynh hướng, bút pháp sáng tạo khác nhau. Có người yêu thơ Tố Hữu, có người mê đắm thơ Xuân Diệu, nhưng cũng có người xúc động sâu xa khi đọc Trần Vàng Sao; có người say mê thơ Nguyễn Duy, Lưu Quang Vũ nhưng có người lại thích thơ Lê Vĩnh Tài hoặc Bùi Chát, Nguyễn Thế Hoàng Linh... Thì có sao? Đó là quyền của người đọc. Nhưng không thể vì sở thích đọc cá nhân mà đòi hỏi/buộc tác giả phải viết theo ý mình. Đây là một mối quan hệ có tính hai chiều (biết rồi, khổ lắm, nói mãi!): Độc giả lựa chọn thơ nhưng thơ cũng lựa chọn độc giả. Sự “hoàn toàn tự do” này là dành cho cả hai phía, theo cách nói của Thanh Tâm Tuyền:

Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi.

người hoàn toàn tự do.

để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ.

người hoàn toàn tự do.

và có thể ném cuốn sách ra khỏi cửa sổ.

(Tôi không còn cô độc)

Tất nhiên, điều này chỉ có thể được hiện thực hóa và bảo đảm bởi một cơ chế văn hóa, xã hội hiện đại, dân chủ, minh bạch, thực sự biết tôn trọng những ý kiến khác biệt trong sáng tạo và tiếp nhận.

Ở Nguyễn Quang Thiều, tồn tại một kiểu tư duy đặc biệt, bằng giấc mơ, trí tưởng tượng, cả những cơn mộng du, ông dẫn ta vào thế giới của chết chóc, thối rữa, sự tàn bạo, nhưng cuối cùng, lại hướng ta đến sự thanh tẩy và ước vọng phục sinh, cứu rỗi.

Lò Mổ là vật liệu, nhưng vật liệu ấy đã được chế tác lại qua một lò luyện đan đặc biệt - tư duy và cảm hứng của nghệ sĩ. Ở Nguyễn Quang Thiều, tồn tại một kiểu tư duy đặc biệt, bằng giấc mơ, trí tưởng tượng, cả những cơn mộng du, ông dẫn ta vào thế giới của chết chóc, thối rữa, sự tàn bạo, nhưng cuối cùng, lại hướng ta đến sự thanh tẩy và ước vọng phục sinh, cứu rỗi. Đó là sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn - tượng trưng và kiểu tư duy sử thi - tôn giáo. Đó là một hành trình dữ dội, một cơn ác mộng, nhưng cực thực và đau đớn, như chính thực tại đời sống ta không thể chối từ. Nguyễn Quang Thiều đã kể lại cho độc giả giấc mơ của cá nhân ông về đời sống này. Nhưng đó không chỉ là giấc mơ của riêng ông. Nói theo Carl Gustav Jung, “những giấc mơ như thế này, cùng với những trải nghiệm trực tiếp của tôi về vô thức, đã dạy tôi rằng, những nội dung ấy không phải là các hình thức lỗi thời đã chết, mà là một phần đời sống nội tại sống động của chúng ta” [5]. Và rằng, “với tôi, trạng thái phi thực đó là bản chất của kinh hoàng, bởi tôi vẫn luôn hướng đến thế giới này và cuộc sống này. Dù có bị cuốn đi đến đâu, tôi luôn biết rằng mọi điều tôi đang trải nghiệm rốt cuộc đều hướng về cuộc sống thực tại của chính mình. Tôi muốn đáp lại những đòi hỏi của nó và hoàn tất ý nghĩa của nó” [6].

Lò Mổ mang cấu trúc của một giấc mơ vô thức, vốn được định hình trên một cấu trúc hiện thực: nỗi kinh sợ trước cái ác, sự tàn bạo, vô minh, niềm tin (đầy lãng mạn) về sức mạnh cứu rỗi của cái đẹp, cái thiện, của nghệ thuật. Đấy là một cơ chế tinh thần mạnh mẽ, dựa trên một niềm tin (có lẽ) cũng mạnh mẽ không kém về những giá trị tinh thần ấy. Hãy đọc “cơn ác mộng” của Lò Mổ theo cách mà nó được thiết kế!

Vinh, 20/10/2025


1. Ngọc Ánh (2025), “Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhờ cơ quan chức năng can thiệp vụ bị xuyên tạc thơ” (Ngọc Ánh), 2/3/2025.

2. Trần Mạnh Hảo (1997) Thơ phản thơ, Nxb Văn học.

3. Karl Jaspers (2024), Cái bi, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú thích, in lần thứ 2, Nxb Hồng Đức, trang 43.

4. Karl Jaspers (2024), Cái bi, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú thích, in lần thứ 2, Nxb Hồng Đức, trang 124-125.

5. Carl Gustav Jung (2025), Hồi ức, giấc mơ, suy ngẫm, Aniela Jaffé thực hiện phần ghi âm, Nxb Thế giới, trang 223.

6. Sách trên, trang 245.

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Baovannghe.vn- Tôi về ấp Sơn Ton, xã Cù Lao Dung, thành phố Cần Thơ vào một ngày tháng tám, khi miền Tây vào giữa mùa mưa, mang theo những cơn giông bất chợt.
Làng không còn xanh bóng tre

Làng không còn xanh bóng tre

Baovannghe.vn - Trước hết, hãy thử dừng lại một chút để hiểu cho tường tận hai tiếng “làng”. Làng (thôn, bản, tổ dân phố) - không chỉ là một đơn vị cư trú đơn giản trên bản đồ.
Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Baovannghe.vn - Bộ GD&ĐT vừa có văn bản gửi một số sở GD&ĐT lấy ý kiến góp ý dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 29/2024/TT-BGDĐT ngày 30/12/2024 của Bộ trưởng Bộ GDĐT (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm.
Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Baovannghe.vn - Hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức (1975 – 2025), vào hai đêm 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm, Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức hòa nhạc mang tên Tấu khúc lưỡng cực – A Rhapsody of Two Worlds.
Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ