Xuất phát: Lâu nay, thơ định đề tồn tại như một ý niệm hơn là một khái niệm. Nó là một dạng đặc biệt và khác lạ của tư duy thơ. Đồng thời, nó cũng là một kiểu thơ khó viết, khó làm. Với nó, thi liệu nhiều khi không đến từ bên ngoài, mà đến từ bên trong của người viết.
Nhận dạng: Về cơ bản, thơ định đề tồn tại đơn lẻ đâu đó, phải rất mất công mới tìm ra nó. Đơn giản vì nó xuất hiện ở người này người khác, ở bài thơ này bài thơ khác, rất hiếm khi quy tụ ở một tác giả hoặc ở một tập thơ.
Có thể nhận ra kiểu thơ này qua những biểu hiện sau: Mỗi bài thơ thường viết không dài, thường có một hoặc hai câu “chốt”; câu “chốt” thường mang giá trị, ý nghĩa triết lý nhân sinh sâu sắc, góc cạnh, đôi khi có hình thức như một câu châm ngôn là kết quả của một quá trình trải nghiệm, chiêm nghiệm; có thể ví mỗi câu thơ như thế có thể như một vết chém, gậy hiệu ứng chí lý, thảng thốt, động tâm tức thì; mỗi câu thơ như thế, cũng có thể ví như một con dao hai lưỡi, người chơi dao (làm thơ) sẽ đứt tay, nếu như không phải là cao thủ; bài thơ nào cũng có tứ; đôi khi rất gần với chân lý; đó là thứ thơ cô đặc và kết tủa; nhiều câu thơ mang giá trị độc lập, có thể đứng một mình, không chịu ảnh hưởng của cả bài thơ; chỉ những độc giả nào chia sẻ được sự trải nghiệm, chiêm nghiệm rất cá nhân đã đúc rút ra thành những gì cụ thể, mới thấy thấm thía và coi nó là một loại thơ có cá tính và mang dấu ấn riêng biệt.
![]() |
| Nhà thơ Đặng Huy Giang trình bày tham luận tại hội thảo “Văn học Việt Nam sau năm 1975 thành tựu, vấn đề và triển vọng”. |
Thực chứng: Từ lâu, trong nước và ngoài nước đã có một số người làm thơ định đề, coi thơ định đề như là sở thích, sở trường.
Đó là các trường hợp: Vô danh có, hữu danh có. Về vô danh, có tác giả của một câu ca dao nào đó. Về hữu danh, có các tên tuổi: Vương Hàn của Trung Hoa; Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ của Việt Nam; B. Brecht của Đức; W. Szymborska của Ba Lan; Ko un của Hàn Quốc; K. Lubomirki của Áo; Y. Bonnefoy của Pháp; Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Mai Quỳnh Nam, Thanh Quế… của Việt Nam.
Cũng có những tác giả chạm đến thơ định đề, nhưng mới chỉ dừng ở mức triết lý.
Cố nhiên, tôi không có ý nói thơ định đề có giá trị hoặc ở tầm cao hơn thơ triết lý, mà chỉ muốn nói: Chúng chỉ bao hàm sự khác nhau mà thôi.
Có thể dẫn chừng bằng những câu: “Dưới công danh đeo khổ nhục” của Nguyễn Trãi; “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao” của Nguyễn Bỉnh Khiêm; “Bao nhiêu người làm thơ đèo Ngang/ Mà quên mất con đèo chạy dọc” của Phạm Tiến Duật; “Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu/ Cây đổ về nơi không có vết rìu” của Hữu Thỉnh; “Sau chiến tranh/ Những người trở về đều có tội” của Vưxốtxki (nhà thơ Nga); “Biển trăm ngả có ngả nào trùng lặp/ Anh có thể về, anh cũng có thể không” của Éptusencô (nhà thơ Nga); “Người dũng cảm không bao giờ chết” của Ximônốp (cũng nhà thơ Nga); “Mọi cuộc chiến tranh kết thúc/ Chỉ có những bà mẹ là thất bại” của B. Brecht…
“Dưới công danh đeo khổ nhục”, tạm “giải mã”: Con đường hoạn lộ thường hiểm hóc, đằng sau nỗi vinh là nỗi nhục.
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người tìm chốn lao xao”, tạm “giải mã”: Ở đời, khôn dại không biết đâu mà lường. Có lắm khi tưởng dại mà khôn, tưởng khôn mà dại.
“Bao nhiêu người làm thơ đèo Ngang/ Mà quên mất con đèo chạy dọc”, tạm “giải mã”: Một phát hiện độc đáo về thuộc tính của một con đèo.
“Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu/ Cây đổ về nơi không có vết rìu”, tạm “giải mã”: Nhiều khi đau đớn, mất mát bất ngờ đến từ người thân, không theo quy luật nào.
“Sau chiến tranh/ Những người trở về đều có tội, tạm “giải mã”: Ý nghĩa lòng nhân bản của những người không chết trận.
“Biển trăm ngả có ngả nào trùng lặp/ Anh có thể về, anh cũng có thể không”, tạm “giải mã”: Đường đời vốn phức tạp, không biết đâu mà lường trước được.
“Người dũng cảm không bao giờ chết” (rút ra từ truyện ngắn “Viên sĩ quan tùy tùng thứ ba”), tạm “giải mã”: Trong chiến trận, tinh thần của người dũng cảm luôn bất diệt.
“Mọi cuộc chiến tranh kết thúc/ Chỉ có những bà mẹ là thất bại (rút ra từ lời thoại trong một vở kịch của B. Brecht): Nói về sự mất mát về mặt bản chất của các cuộc chiến tranh và người chịu nhiều bi kịch nhất là những người đã sinh ra những người ra trận (ở cả hai phía).
Để thực chứng cho thơ định đề, trong bài viết này, tôi chỉ nêu những bài thơ tiêu biểu như là những trường hợp đáng chú ý.
Xin được bắt đầu bằng hai câu ca dao cổ của người Việt:
Cuộc đời là cuộc đời đi
Nếu mà dừng lại là đi cuộc đời
Chất định đề nằm ở chữ “đi”. Cùng dùng một chữ “đi”, nhưng “đi” trước là “vận động”, “đi” sau là chết’. Nói tóm lại, cuộc đời là một sự vận động không ngừng, không vận động thì chắc chắn sẽ đi vào ngõ cụt.
Tiếp theo là “Khúc hát Lương Châu” của Vương Hàn (bản dịch của Trần Quan Trân):
Bồ đào rượu ngát chén lưu ly
Toan nhắp tỳ bà đã giục đi
Say khướt sa trường anh chớ mỉa
Xưa nay chinh chiến mấy kẻ về.
Chất định đề nằm trong câu chốt: “Xưa nay chiến chiến mấy kẻ về”, nói về tính khốc liệt, một mất một còn của nhiều cuộc chiến.
Tiếp theo là Bài thứ 20 trong “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi:
Ở thế nhiều phen thấy khóc cười
Năm nay tuổi đã ngoại tư mươi (64 tuổi)
Lòng người một sự yếm chưng một (mọi sự đều chán)
Đèn khác mười thu lạnh hết mười
Phượng những tiêu cao, diều hãy liệng
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi
Ai ai đều có hai con mắt
Xanh bạc dầu chưng mặt chúng người (mặt mọi người).
Chất định đề nằm trong câu thứ sáu: “Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi”, nói về tuổi thọ của những vật cao quý và tuổi thọ của những vật tưởng như tầm thường (nghĩa đen). Còn theo nghĩa bóng: Có khi có những cái khác thường thì chóng lụi tàn, còn những cái bình thường hoặc tầm thường lại còn mãi.
Tiếp theo là bài “Không đề (3)” của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Có quyền thì có của người cho
Mất vốn chi ru (đâu) hòa (mà) đắn đo
Ang thịt mỡ bùi, ruồi đến đỗ
Bát bồ hòn đắng, kiến đâu bò
Người nhiều hầu hạ nên quân tử
Ta ít đua chen cũng trượng phu
Ghét thế tình rằng đạm bạc (nhạt nhẽo)
Ai từng nước lã quấy nên hồ.
Chất định đề nằm trong hai câu: “Ang thịt mỡ bùi, ruồi đến đỗ/ Bát bồ hòn đắng, kiến đâu bò”, nói về ở đời, con người ta thường tìm đến cái lợi (dù là nhỏ) cho mình, ít có người tìm đến những chỗ không có cái lợi.
Tiếp theo là bài “Vịnh thế thái nhân tình” của Nguyễn Công Trứ:
Thế thái nhân tình gớm ghiếc thay!
Lạt nồng: Trông chiếc túi vơi đầy
Hễ không điều lợi: Khôn thành dại
Đã có đồng tiền: Dở cũng hay
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi
Hẳn hoi, không hết một bàn tay
Suy ra cho kỹ, chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Chất định đề nằm trong hai câu: “Hễ không điều lợi: Khôn thành dại/ Đã có đồng tiến: Dở cũng hay”, nói về cái sự thủ lợi ở đời và nói về thế mạnh của đồng tiền.
Tiếp theo là bài “Không đề” của Tagore: “Chúa cũng tự tìm mình trong sáng tạo”.
Chất định đề của bài thơ nằm trong toàn bài (bài thơ chỉ có mỗi một câu), nhằm đề cao sự không ngừng thay đổi, không ngừng làm mới trong quá trình tìm kiếm cái ngã, cái tôi của mỗi cá nhân dù ở bất kỳ vị trí nào trong xã hội.
Tiếp theo là B. Brecht với chùm bài ba bài: “Nếu hòn sỏi nói”, “Mặt nạ kẻ ác”, “Ca ngợi chủ nghĩa cộng sản”.
Bài thứ nhất:
Khi bạn tung hòn sỏi lên trời
Hòn sỏi nói: Tôi rơi về đất
Bạn tin hòn sỏi kia nói thật.
Nếu có ai ném bạn xuống nước
Chắc chắn bạn sẽ bị ướt.
Nếu có cô gái viết thư và hẹn giờ đến gặp
Thì bạn chớ vội tin
Vì đó không phải là tất yếu của tự nhiên.
Bài thứ hai:
Trong buồng tôi treo một điêu khắc gỗ
Mặt nạ cá thân Nhật Bản thếp vàng
Mạch máu hằn trên trán nhắn khốn khổ
Tôi nhìn nó cảm thông:
Làm kẻ ác khó nhọc vô cùng.
Bài thứ ba:
Chủ nghĩa cộng sản hợp lẽ phải, ai cũng hiểu được
Nó thực dễ dàng
Anh không phải kẻ bóc lột, anh hiểu được thôi
Nó có lợi cho anh, anh cố gắng tìm hiểu nó
Kẻ ngu ngốc gọi nó là ngu ngốc, kẻ bẩn thỉu gọi là bẩn thỉu
Nó chống lại sự bẩn thỉu và ngu ngốc
Kẻ bóc lột gọi nó là tội ác
Những chúng ta biết rằng
Nói chấm dứt tội ác.
Nó không phải sự điên cuồng
Nó chấm dứt sự điên cuồng
Nói không phải sự hỗn loạn
Mà là trật tự.
Nó là cái đơn giản
Khó làm.
Chất định đề của bốn bài thơ trên nằm trong các câu: “Nếu có cô gái viết thư và hẹn giờ đến gặp/ Thì bạn chớ vội tin/ Vì đó không phải là tất yếu của tự nhiên (tất yếu của xã hội khác với tất yêu của tự nhiên); “Làm kẻ ác khó nhọc vô cùng” (vì luôn phải có âm mưu, thủ đoạn nên kẻ ác luôn luôn vất vả); hai câu cuối trong “Ca ngợi chủ nghĩa cộng sản” đã đúc rút được bản chất của chủ nghĩa cộng sản là điều đơn giản nhưng khó làm.
Tiếp theo là W. Szymborska với “Không có gì hai lần”:
Không có gì xảy ra hai lần
và sẽ không bao giờ có cả
vì thế mà chúng ta
đã sinh ra như những kẻ vụng về
và sẽ chết như chưa từng nếm trải
Chúng ta - những học trò của tột cùng ngu dại
dưới mái trường thế gian
đành khoanh tay
chúng ta sẽ không thể làm
cho một mùa đông, mùa hè lặp lại.
Không có ngày nào lặp lại
không có hai đêm như nhau
không có hai nụ hôn
hai ánh mắt nhìn giống hệt.
Hôm qua
khi rất gần ai đó gọi tên anh
em thấy mình
như một bông hồng rời vào qua ô cửa nhỏ
.
Hôm nay
khi ở cùng anh đó
em đã quay mặt vào tường
Hoa hồng ư? Bông hồng ấy ra sao?
Có phải hoa? Hay chỉ là viên đá?
Vì sao hỡi thế gian nghiệt ngã
ngươi cứ khuấy lên một nỗi âu lo
ngươi đang tồn tại ư? Vậy là ngươi sẽ phải trôi qua
ngươi đang trôi qua - đó là điều tuyệt diệu.
Chúng ta ôm nhau, miệng cười
cố tìm điều thân thiện
dẫu biết rằng
mình khác nhau như hai giọt nước trong veo.
Chất định đề nằm ngay trong tứ của bài thơ: “Không có gì hai lần”, khẳng định mọi hiện tượng, về cơ bản đều khác biệt, đều chỉ xảy ra một lần và duy nhất, ngay đến “hai giọt nước trong veo” cũng còn “khác nhau” và đó chính là giá trị lạ thường của cuộc sống.
Tiếp theo là Ko Un với “Tha phương”:
Nếu sự ra đi là con đường trở thành nhà sư
Thì trở về đích thực là con đường trở thành Đức Phật
Nhưng người chỉ đích thực trở về
Khi đích thực ra đi.
Chất định đề nằm ở hai câu cuối: “Chỉ đích thực ra đi mới đích thực trở về”.
Tiếp theo là K. Lubomirski với chùm bài: “Cái thiện, cái ác”; “Hoàn cảnh”; “Bên em”; “Sách”; “Sự tiến bộ”.
Bài thứ nhất: “Cái thiện/ Cái ác/ Hai đường song song/ Giao điểm ở vô cùng” với hàm ý: Cái ác và cái thiện không bao giờ gần nhau được. Bài thứ hai: “Đừng trổ nhiều cửa sổ/ Lên bức tường của anh/ Quá nhiều ánh sáng/ Tường sẽ đổ” với hàm ý: “Thái quá” thường “bất cập”. Bài thứ ba: “Chúng ta chặt đứt tay/ Số phận/ Và tin/ Không có số phận” với hàm ý: Sự tiến bộ đồng nghĩa với việc không tin có số phận, không tin sự an bài có sẵn.
Đấy những định đề được rút ra qua ba bài thơ của K. Lubomirski.
Tiếp theo là Y. Bonnefoy với “Bất toàn là đỉnh cao”:
Có điều là phải hủy diệt, và hủy diệt, và hủy diệt
Có điều là cần sự cứu rỗi chỉ có được bằng cái giá đó
Phá tan bộ mặt trần trụi trồi lên trong đá hoa
Đập vỡ mọi hình dạng, mọi cái đẹp.
Yêu cái toàn bích bởi đó là ngưỡng cửa
Nhưng chối từ ngay nó khi tận mặt, hãy quên nó, cái đã chết
Bất toàn là đỉnh cao.
Chất định đề nằm trong câu: “Bất toàn là đỉnh cao" với hàm ý: Mọi cái phải là hành trình đến đích và đích đến là vô cùng, nhiều khi “toàn” không phải là tuyệt đỉnh.
Tiếp theo là Mai Quỳnh Nam với “Không đề I”, “Vũng nước trên đường”, “Không đề II”.
Bài thứ nhất:
Vô nghĩa
như mùa không tình ái
chiến trận không chiến bại.
Bài thứ hai:
Nước thành không rũ sạch bụi trần
vẫn là nước thánh
hạnh phúc mong manh
vẫn là hạnh phúc, bên cạnh những bất hạnh.
Chất định đề ở bài thứ nhất nằm trong cả 3 câu với hàm ý: Ở đời, chẳng còn ý nghĩa gì nữa nêu không có hiện tượng và kết cục.
Chất định đề ở bài thứ hai nằm trong cả 4 câu với hàm ý: Những gì đã được định danh, định tính từ lâu rồi thì không dễ gì thay đổi được và không thể thay thế cho nhau được.
Sau Mai Quỳnh Nam là Thanh Quế. Trong “Sự chuyển động” (thơ giai đoạn 2000 – 2020), Thanh Quế có 3 tứ thơ có giá trị như thơ định đề. Đó là các bài “Thế giới”: “Là/ Cái cây dễ gãy/ Mà muốn sống/ Con người phải leo trèo/ Hái quả”; “Con người đương đại”: “Chúng ta/ Ngày càng xa lánh mọi người/ Xa lánh xã hội/ Để ép mình lại/ Nằm gọn trong ví tiền”; “Ai kia”: “Lúc quỳ gối xoa tay lúc đẩy xô chen lấn/ Đường công danh như đường lên trời/ Ai kia, có phải con người?”.
Tạm kết: Vai trò và ý nghĩa, cũng như hiệu quả của thơ định đề là rất lớn. Đặc biệt là tính hiện đại của thơ định đề.
Thơ định đề thường được dẫn dắt rất trực tiếp, đi thẳng vào lòng người.
Thơ định đề không thích hợp với những ai ưa làm duyên làm dáng, coi nặng hình thức mà trống rỗng về mặt nội dung. Hay nói một cách khác: Thơ định đề thường bất chấp hình thức.
Mặt khác, thơ định đề hàm chứa và hiện đại ở chỗ: Sau mỗi câu, mỗi dòng… người đọc có thể tiếp nhận được một lượng thông tin rất lớn và có thể viết lại thành một bài luận với một khối lượng từ ngữ đáng kể. Và đằng sau nó, rất có thể là một khởi đầu từ một sự tưởng chừng đã kết thúc.
Cuối cùng, thơ định đề cuốn hút vì nó thách thức tư duy của người đọc, vì nó giống lời phán quyết của cảm xúc, vừa duy lý, vừa duy cảm và vì trong sự ngắn gọn, cô đọng ấy, nó gợi mở cả một thế giới suy tưởng.
--------------
Bài viết được khai thác từ tham luận hội thảo “Văn học Việt Nam sau năm 1975 thành tựu, vấn đề và triển vọng”.