Nhưng vất vả nhất là những ngày mưa to nước lũ, phải vượt qua sông suối chỉ bằng chiếc bè chuối hoặc mảng tre nứa chòng chành trên dòng nước đục ngầu, cuồn cuộn chảy siết. Có hôm đến lớp mà quần áo ướt như chuột lụt, phải đốt lửa hơ cho khô rồi mới vào học.
Đường làng những ngày mưa thì thật lầy lội, trơn như đổ mỡ. Lại thêm những dấu chân trâu tạo thành những vũng sâu đọng bùn như những chiếc ao con. Nắng lên cả tuần mà chưa khô. Đi trên những con đường ấy vào mùa hè, chân lội nước nhiều bị nước “ăn” nên rất ngứa ở các kẽ ngón và gan bàn chân. Đêm ngủ ngứa quá cứ nhè thành giường hay mép chiếu mà cọ, mà gãi…
Bị ngứa, chúng tôi cũng chỉ chữa ngứa bằng lá thuốc dân gian: lấy lá lốt, lá xoan, lá trầu đun sôi, thêm muối, để nguội rồi ngâm chân. Thỉnh thoảng mua phèn chua ở các bà buôn hàng xén, đem phi nóng, tán nhỏ rồi bôi vào chỗ ngứa. Có phèn chua bôi thì nhanh khỏi, nhưng xót đến điếng người. Có đứa bị nặng, nhiễm trùng, phải bôi thuốc đỏ, thuốc tím, trông như tô vẽ, đỏ chót cả bàn chân.
![]() |
| Vùng cao - Ảnh: Pixabay |
Mùa đông càng khổ hơn. Chúng tôi đi học thường mang theo đuốc lửa, hoặc bện bùi nhùi rơm đốt để sưởi. Chân không giày dép nên hay bị nứt nẻ, bật máu tươi, đau rát. Phải lấy tro bếp hoặc tai chua khô nấu nước ngâm chân cho mềm da rồi bôi mỡ trăn, mỡ gà chống nẻ. Kem sáp thì… nghe còn xa lạ.
Dù đông hay hè, chúng tôi vẫn đầu trần chân đất, trên vai là túi vải tòng teng vài quyển sách, cây bút chì, bút mực. Khổ nhất là chiếc lọ mực: nếu không nút chặt dễ bị đổ, mực thấm vào vở, vào áo. Tay đứa nào cũng bị nhem nhuốc vết mực.
Bàn học ngày ấy được thiết kế mặt bàn nghiêng nhẹ, có rãnh để bút khỏi rơi, có năm ngăn đựng sách vở cho năm em ngồi. Khi thầy cô giảng bài thì phải khoanh tay đặt lên bàn, mắt nhìn lên bảng. Chỉ khi chép bài mới được cầm bút viết.
Bút có ngòi sắt, cán gỗ. Cứ chấm mực viết vài chữ lại phải chấm tiếp. Mực là loại bột khô mua về tự pha. Lên lớp cao hơn thì dùng bút máy có ruột bơm, trữ mực, dùng mực nước như Cửu Long, Hồng Hà… Nếu mực pha tự chế hay bị tắc, lại phải vẩy đầu bút xuống đất. Có khi vẩy cả ra quần áo.
Mực thì thiếu, giấy lại càng khó. Phải dùng cả giấy hẩm không có dòng kẻ, giấy thô ráp, mặt trơn – mặt ráp, có cả lỗ thủng. Mỗi tập “phê đúp” 20 tờ thường được cắt đôi, rồi đóng thành vài quyển vở. Tự làm nhãn vở bằng mảnh giấy nhỏ, dùng hạt cơm làm keo. Có khi hai ba môn ghi chung một quyển, lúc thầy cô thu bài tập để chấm điểm lại luống cuống thiếu vở ghi bài.
Sách giáo khoa thường không đủ, nên càng quý lắm. Sau khi nhận về là bọc bìa cẩn thận bằng vỏ bao xi măng hoặc báo cũ, tự dán nhãn. Không ai được vẽ bậy hoặc viết vào sách in, kể cả sách bài tập. Cuối năm còn có cuộc thi vở sạch – chữ đẹp. Vì khó khăn, sách in không đủ, nên hai ba bạn dùng chung một quyển là chuyện thường. Có cuốn sách “chuyền tay” nhau học suốt mấy năm vẫn còn lành lặn.
Thời chiến tranh, kinh tế còn nghèo, quần áo rét chỉ làm từ sợi, bông cũ, chưa có áo len, áo phao như bây giờ. Những ngày mưa rét đến lớp, đứa nào cũng mũi đỏ ửng, tay cầm bút run rẩy, tê cứng dòng chữ nhòe nhoẹt, miệng xuýt xoa thở như khói… nhưng đôi mắt vẫn sáng lên trên trang vở học trò.
Lớp học là nhà tranh, tre thấp bé, vách bằng phên đan, gió lùa hun hút. Mưa bão làm tốc mái, sập lớp, lại phải học dồn hoặc chia ca. Học ca chiều thì về nhà thường trời đã tối mịt, nhất là những hôm mưa gió càng thêm gian nan. Khó khăn là thế, nhưng chúng tôi ít khi nghỉ học. Bạn nào nghỉ đều có giấy xin phép, nhờ chép bài. Có lần tôi đau bụng nghỉ một buổi, hôm sau đến lớp dù bạn đã chép bài giúp, nhưng không được nghe thầy giảng nên hiểu bài lơ mơ, hụt hẫng, tiếc lắm.
Thời chúng tôi học cấp I, bạn nào cũng có một bó que tính để “học tính”. Những que tre vót nhỏ hơn chiếc đũa, vừa để làm toán, vừa để các bạn gái chơi chuyền trong giờ ra chơi. Lên cấp II thì chúng tôi lại tập làm bàn tính khung gỗ, với những hạt gỗ chạy lách cách trên các hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn…
Tiết thủ công là khoảng thời gian vui nhộn và đầy sáng tạo. Chúng tôi học cách đan rổ rá, vót đũa, làm thước, nặn quả cam, quả chuối bằng đất sét rồi tô màu. Màu sắc cũng chẳng phải sơn hay bột vẽ như bây giờ, mà tự chế từ nghệ vàng, lá cơm đỏ, vôi trắng, hay nhọ nồi đen… Những món đồ đơn sơ ấy chính là “tác phẩm mĩ thuật” đầu đời, vừa thực tế, vừa khiến chúng tôi say mê tự hào khôn xiết.
Tôi nhớ nhất năm lớp 4 – năm cuối cấp I, khi cả trường có ba lớp cuối cấp, mỗi tuần lại dồn một tiết để cùng học hát. Thầy cô ngày ấy đâu được đào tạo về âm nhạc, nhưng ai cũng sôi nổi hát mẫu cho học trò. Những giai điệu ấy, bài hát ấy, đến giờ vẫn như vang đâu đây – trong kí ức, trong tâm hồn tôi…
Là lớp “đàn anh”, lớp tôi thi đua rất sôi nổi. Mỗi tổ đều có khẩu hiệu riêng: “Giữ cờ xanh – giành cờ đỏ – bỏ cờ trắng.” Tổ nào bị vi phạm nội quy thì phải giặt khăn lau bảng, quét lớp, làm vệ sinh sân trường. Ngoài ra, còn có phong trào “sửa lỗi nói ngọng” – một hình thức học mà chơi rất hiệu quả. Cả lớp rộn ràng với những câu luyện đọc hài hước như: “Nòng nợn – lòng lợn”, “Con tâu – con trâu” hay “Hôm nay ngày hội làng ông Lang ăn lòng lợn luộc”, “Nồi đồng nấu ốc – nồi đất nấu ếch”... Cứ thế, vừa luyện giọng, vừa luyện chữ, vừa rèn sự tự tin, rất vui và thoải mái, tiếng cười hồn nhiên vô tư như hoa rừng nở.
Sáng đi học, chiều đi chăn trâu, chúng tôi thường mang sách ra đồng học bài vì tối không có dầu đèn. Có bạn dùng nhựa cây trám đốt lên để học như thắp nến. Không mang theo bút thì dùng que vạch đất làm toán, viết chữ trên lưng trâu, lá chuối – vừa thú vị, vừa nhớ rất lâu.
Tôi nhớ nhất là những buổi đi cổ động và cắm trại. Cả trường xếp hàng dài, trống giục rộn ràng, miệng hô vang khẩu hiệu: bầu cử, Quốc khánh, chống Mỹ cứu nước... Trại cắm đơn sơ bằng chăn chiên, ri-đô căng làm lều, trang trí cành lá đao, lá cọ và hoa rừng. Đêm lửa trại sôi nổi với trò chơi hái hoa dân chủ, múa hát, kéo co... Liên hoan chỉ là chút bánh kẹo, mía, chuối nhà tự trồng, nhưng vui không kể xiết. Bạn nào “hái” trúng bông hoa có câu hỏi hóc búa chưa trả lời được thì phải chạy vòng quanh trong tiếng hò reo cổ vũ.
Giờ đây, quê tôi đã thay đổi nhiều. Đường bê tông sạch đẹp thẳng tắp về tận ngõ. Học sinh đi học bằng xe đạp, xe điện. Quần áo mới tinh tươm, ba lô sách gọn gàng, khăn đỏ thắm vai. Trường học cao tầng, điện sáng, bàn ghế khang trang. Sân trường rộng rãi, rợp bóng cây xanh, bồn hoa rực rỡ, lại có cả sân khấu cho lễ chào cờ và biểu diễn văn nghệ…
![]() |
| Đến trường. Ảnh: Pixabay |
Tôi càng thêm yêu và trân trọng cái thời nghèo khó mà đầy nghị lực ấy. Những bước chân trần lấm bùn, rớm máu ngày xưa đã thắp lên trong tôi – và trong cả thế hệ chúng tôi – một ngọn lửa khát vọng không bao giờ tắt. Chính từ gian khó ấy, chúng tôi đã học được ý chí vượt lên, biết quý trọng từng con chữ, từng trang sách, từng buổi đến lớp đến trường
Mong sao thế hệ hôm nay – những em nhỏ trong tà áo trắng tinh khôi, trong sân trường khang trang – sẽ biết giữ gìn và nâng niu giá trị của việc học, rèn luyện để làm chủ cuộc sống. Bởi học không chỉ biết chữ, mà để làm người, để yêu quê hương đất nước, góp phần dựng xây một tương lai giàu đẹp, như lời Bác Hồ hằng mong muốn và căn dặn. Đưa đất nước ta tiến nhanh vào kỉ nguyên mới– kỉ nguyên vươn mình của dân tộc ngày càng phát triển hùng cường và hạnh phúc.
Nguyễn Hồng Quang | Báo Văn nghệ