Sáng tác

Ân tình Huyền Trân. Truyện ngắn của Phạm Hữu Hoàng

Phạm Hữu Hoàng
Truyện 09:44 | 05/09/2025
Baovannghe.vn- Tháng ba năm Tân Sửu (1301), theo lời mời của Chế Mân, thái thượng hoàng Trần Nhân Tông du hành đến vương quốc Chăm Pa.
aa

Rời thiền tự Trúc Lâm vào sáng sớm cuối xuân, khí trời se lạnh, sương giăng bốn bề. Trên đường xuống núi, gương mặt thái thượng hoàng trầm lặng suy tư. Từ lúc truyền ngôi cho Trần Anh Tông, lui về núi Yên Tử mở am Ngọa Vân tu hành, tưởng rằng từ đây sẽ buông bỏ thế tục, sống bình yên nơi cửa thiền, vui thú cùng cây cỏ chim muông.

Tháng ba năm Tân Sửu (1301), theo lời mời của Chế Mân, thái thượng hoàng Trần Nhân Tông du hành đến vương quốc Chăm Pa. Rời thiền tự Trúc Lâm vào sáng sớm cuối xuân, khí trời se lạnh, sương giăng bốn bề. Trên đường xuống núi, gương mặt thái thượng hoàng trầm lặng suy tư. Từ lúc truyền ngôi cho Trần Anh Tông, lui về núi Yên Tử mở am Ngọa Vân tu hành, tưởng rằng từ đây sẽ buông bỏ thế tục, sống bình yên nơi cửa thiền, vui thú cùng cây cỏ chim muông. Nhưng vận nước vẫn chưa yên, một số chuyện xã tắc quan trọng vẫn cần phải ra tay giải quyết. Như chuyến đi lần này, ngoài việc thăm thú cảnh sắc vương quốc Chăm Pa, gặp Chế Mân, vị thái tử kiêu hùng năm xưa, người đã chỉ huy quân Chăm Pa đánh bại quân Mông-Nguyên giữ yên bờ cõi, còn một việc khác lớn hơn. Sự kiện hai nước đồng cam cộng khổ, sát cánh chống giặc dữ phương Bắc trôi qua gần hai thập niên. Ngần ấy thời gian, đã có biết bao đổi thay. Trong vương triều Chăm Pa, đã nảy sinh những lời dị nghị, gièm xiểm, thù địch hướng về Đại Việt làm rạn vỡ tình hòa hiếu giữa hai dân tộc. Phải dập tắt ngay mầm họa ấy không để xảy ra bất hòa nghiêm trọng gây nạn binh đao, bá tánh rơi vào cảnh lầm than, khổ ải.

Ân tình Huyền Trân. Truyện ngắn của Phạm Hữu Hoàng
Minh họa Ngô Xuân Khôi

Trần Nhân Tông đến kinh đô Vijaya, Chế Mân lấy lễ trọng nghênh tiếp. Cả hai vui mừng khôn xiết, hàn huyên thân mật. Khi nhắc lại nghĩa tình nồng ấm của một thời binh lửa, Chế Mân cảm khái:

- Năm ấy, nhờ trợ giúp kịp thời của Đại Việt, chúng tôi giữ yên được bờ cõi. Ơn ấy không bao giờ quên.

Thái thượng hoàng đáp:

- Đó là chuyện nên làm. Chúng ta là láng giềng. Môi hở răng lạnh, cùng chiến đấu chống kẻ thù chung là lẽ đương nhiên.

Chế Mân mời thái thượng hoàng lưu lại hoàng cung. Cả hai đàm đạo rất tương đắc về thế cuộc, nhân tình thế thái, lễ nghi, âm nhạc... Ngày đẹp trời, cùng du sơn ngoạn thủy, thăm viếng các đền tháp rực rỡ, sừng sững, uy nghi như ngọn lửa thiêng đỏ rực trên các đỉnh đồi. Đứng dưới chân tháp, ngắm cảnh vật mênh mông hữu tình: dòng sông uốn lượn qua cánh đồng mênh mông, mặt nước lam bạc lấp loáng dưới làn nắng nhạt êm đềm xuôi về chân trời xa xăm. Những mái tranh vàng trong thôn xóm ẩn hiện dưới màu xanh bạt ngàn cây lá...

Hôm ấy, bước vào đại điện hoàng cung, Trần Nhân Tông thấy Chế Mân mải mê ngắm bức phù điêu chạm trổ tinh xảo gắn trên bức tường bên phải. Trần Nhân Tông bước nhẹ tới bên cạnh. Nghe tiếng động, Chế Mân quay lại, khẽ chào rồi ngước nhìn bức phù điêu, giọng thành kính, ngưỡng mộ:

- Đây là nữ thần Mahisha Sura Mardini, phu nhân của thần Si Va. Vị nữ thần hiện thân cho công lí, sở hữu quyền lực vô biên, diệt trừ các thế lực tà mị, hắc ám bảo vệ vương quốc.

Truyền thuyết về vị nữ thần cổ xưa qua lời quốc vương hiện lên thật sống động. Chế Mân tự hào nói:

- Bức phù điêu này là kiệt tác nghệ thuật điêu khắc của nghệ nhân tài hoa vương quốc Chăm Pa chúng tôi, là báu vật truyền đời của tổ tiên từ khi đến đây lập quốc.

Trần Nhân Tông không ngờ vị quốc vương yêu nước, thương dân, đức độ, nhân hòa còn là người có tâm hồn phong phú, yêu cái đẹp ở đời, trân trọng di sản thiêng liêng của tiền nhân đến vậy, nên càng quý trọng, giao tình thêm thân thiết. Sau lần tương kiến đó, thái thượng hoàng nung nấu ý nghĩ, phải thắt chặt hơn nữa hòa hiếu giữa Đại Việt và Chăm Pa, cũng như tình bằng hữu thâm giao giữa mình và Chế Mân. Nhưng làm thế nào thực hiện được điều đó? Trong lúc mải miết suy tư, một hình ảnh chợt hiện ra. Trần Huyền Trân, người con gái được ông yêu thương, nâng niu như báu vật. Gả Huyền Trân cho Chế Mân, nếu hôn sự thành, việc chung riêng đều được vẹn toàn. Một hôm, lúc đang vui vẻ thưởng trà cùng Chế Mân, Trần Nhân Tông mở lời:

- Tôi có một hoàng nữ dung nhan kiều diễm, tính tình hiền thục, tinh thông cầm kì thi họa. Nếu ngài ưng thuận, tôi sẽ gả cho ngài để con tôi có nơi nương tựa xứng đáng. Không biết ý ngài thế nào?

Chế Mân ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp:

- Chúng ta là bằng hữu, nay thái thượng hoàng nói việc hỉ sự này, hóa ra ngài muốn trở thành nhạc phụ của tôi sao?

Rồi cười ầm lên vui vẻ. Thái thượng hoàng biết việc liên hôn đã thành. Lúc này, Chế Mân đã có hai người vợ: vương hậu thứ nhất Bhaskaradevi và vương hậu thứ hai Tapasi. Việc Chế Mân ưng thuận Huyền Trân không chỉ vì tài sắc, phẩm hạnh của nàng công chúa Đại Việt qua lời giới thiệu của Trần Nhân Tông, mà điều cốt yếu là hiểu được hàm ý của thái thượng hoàng. Đây cũng là mong muốn của quốc vương. Đã từng trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc với giặc Mông-Nguyên, hơn ai hết, Chế Mân hiểu rõ, một khi giao chiến với Đại Việt, muôn dân rơi vào khói lửa tang thương, mất mát, biệt li, đau khổ trăm bề... Đó sẽ là tai họa không lường hết được. Nhân duyên đã định. Chỉ còn chọn ngày lành tháng tốt tổ chức hôn lễ, đưa nàng công chúa Đại Việt về làm dâu vương quốc Chăm Pa. Chế Mân đã hào phóng dâng châu Ô và châu Rí làm quà sính lễ. Nhà Trần cũng chuẩn bị của hồi môn hậu hĩnh... Mọi thứ chuẩn bị xong, chỉ còn chờ tiếng pháo vu quy...

*

Nắng hạ trải lớp vàng óng khắp hoàng cung Thăng Long. Trong Ngự hoa viên, hai thiếu nữ nhẹ bước trên lối đi lát đá phẳng phiu len giữa muôn hoa đủ màu sắc rực rỡ. Đó là công chúa Huyền Trân và thị nữ Tố Uyên. Huyền Trân dáng vẻ yêu kiều như hoa, kiêu sa như ngọc. Sắc đẹp tuyệt mĩ làm xao động tâm tư cảnh vật. Huyền Trân dừng lại bên khóm mẫu đơn, hương hoa dìu dịu, ngọt ngào, quyến rũ. Nàng khẽ nghiêng đầu ghé mặt vào đóa sắc hồng kiêu sa, thanh khiết, cánh hoa mịn màng lay động theo làn gió nhẹ chạm lên má nàng như vuốt ve, trìu mến. Bỗng Tố Uyên lên tiếng:

- Thưa công chúa, đến lúc phải về ngự thư phòng rồi.

Huyền Trân chau mày, nét mặt thoáng vẻ chán ghét. Tố Uyên theo hầu đã mấy năm, luôn kề cận sớm hôm, chia sẻ tâm tư, an ủi lúc phiền muộn, nên thấu rõ tâm trạng bực dọc của Huyền Trân. Nguyên cớ là khi thái thượng hoàng trở về từ vương quốc Chăm Pa, đã gọi Huyền Trân tới thiền tự Trúc Lâm, nói rõ hôn nhân đã định giữa nàng với quốc vương Chăm Pa, truyền lệnh các quan Quốc Tử Giám dạy nàng học tiếng Chăm và lễ nghi cung đình, phong tục tập quán người Chăm. Huyền Trân buồn vô hạn. Nhưng không dám trái ý phụ hoàng. Cuộc sống nàng ngột ngạt bởi sự giám sát của các thái giám. Mỗi lần cung đình mở hội, nhìn các hoàng tử, công chúa trong hoàng tộc tự do, ríu rít vui đùa, cười nói hớn hở, không khỏi chạnh lòng. Nàng oán trách số phận trớ trêu nỡ trói buộc đời mình vào cuộc liên hôn oái oăm, lo sợ thời khắc phải xa kinh thành, xa nơi gắn bó cả thời hoa mộng, dấn thân vào chốn ngàn trùng mờ mịt.

*

Tháng sáu năm Bính Ngọ (1306), đoàn thuyền đưa công chúa Huyền Trân vào làm dâu hoàng gia Chăm Pa cập cửa biển Thị Nại. Chế Mân dẫn bề tôi ra thành Thị Nại đón. Dù ở tuổi trung niên, nhưng quốc vương vẫn tráng kiện, dung mạo thanh tú, phong thái tự tin, tao nhã. Chế Mân mặc lễ phục trắng, đội vương miện khảm ngọc, áo bào lụa đỏ thêu họa tiết tinh xảo, lưng đeo đai vàng, giày đen mịn. Chế Mân mỉm cười thân thiện, bước tới gần Huyền Trân hỏi:

- Nàng là công chúa Trần Huyền Trân?

Huyền Trân e lệ đáp:

- Vâng ạ!

Chế Mân cười hiền hòa, giọng thân mật:

- Ta là hôn phu của nàng.

Ánh mắt Chế Mân dịu dàng yêu thương như gặp người mong nhớ từ lâu. Lòng Huyền Trân xôn xao. Hồi còn ở Thăng Long, nàng đã được nghe kể về Chế Mân, một vị minh quân, dung mạo anh tuấn, phong thái uy nghi, dáng dấp phong trần, ứng xử lịch thiệp, là người đàn ông xứng đáng cho mọi mơ ước của phụ nữ. Nghe vậy, nàng cho rằng chỉ là những lời dỗ dành, phỉnh phờ để nàng yên tâm với cuộc liên hôn. Bây giờ, nàng mới tin đó là sự thật. Ngay phút đầu gặp gỡ, ánh mắt chạm nhau, lòng nàng xao động. Cảm giác ngọt ngào kì lạ ngây ngất cả người. Huyền Trân thẹn thùng, mặt đỏ bừng, tay khẽ siết lấy vạt áo, thói quen khi gặp chuyện bối rối ngượng ngùng. Chế Mân ân cần bảo:

- Nàng đi đàng xa vất vả rồi, mau về kinh thôi!

Chế Mân dìu nàng lên kiệu. Lòng nàng ấm áp lạ thường. Cảm giác lo lắng đeo đẳng suốt hành trình dài trên thuyền tan biến hết. Đoàn rước dâu về tới kinh thành. Huyền Trân kinh ngạc nhìn tầng tầng lớp lớp vòm mái ngói đỏ thắm cong vút của đại điện, từng dãy cột đá sừng sững, thân cột chạm trổ công phu hình các vũ nữ Apsara uốn mình trong điệu múa thần linh, những chiến binh mình trần tay giáo oai phong lẫm liệt, những linh vật thiêng như sư tử, chim thần Garuda, voi ba đầu Erawan, dây leo đá, hoa sen... Hoàng cung lộng lẫy với các loài hoa thơm cỏ lạ. Trống chiêng rộn rã, tưng bừng. Tất cả như hân hoan đón chào nàng công chúa Đại Việt. Lễ cưới trọng thể được cử hành theo nghi thức truyền thống hoàng gia Chăm Pa. Huyền Trân trong bộ xiêm y sắc trắng thướt tha viền gấm đỏ rực, bước đi chậm rãi trên thảm hoa bên cạnh Chế Mân, tiến đến chiếc ngai quốc vương uy nghi trên bệ cao. Quần thần tung hô chúc mừng. Chế Mân ngồi vào ngai, ra hiệu nàng ngồi vào chiếc ghế khảm ngọc bên cạnh. Xong đâu đấy, trong không khí trang nghiêm, quốc vương truyền bảo viên nội quan tuyên đọc chiếu chỉ phong Huyền Trân làm vương hậu thứ ba Paramecvari.

Trong cuộc sống phu thê, Chế Mân hết mực yêu thương, chăm sóc Huyền Trân tận tình, chu đáo. Để giúp nàng vơi đi nỗi buồn nhớ quê, những đêm trăng thanh gió mát, quốc vương bày yến tiệc trong vườn Ngự uyển. Trên bàn ăm ắp sơn hào hải vị. Dưới ánh đuốc chập chùng, hòa vào giai điệu réo rắt, trầm bổng du dương của các loại nhạc cụ như trống ginang, kèn saranai, đàn kanhi..., đội múa cung đình biểu diễn các điệu múa: múa ru con, múa quạt, múa đội nước, múa khăn, múa đạp lửa… Vũ nữ Chăm qua các điệu múa tái hiện hình ảnh mộc mạc trong đời sống bình dị người dân Chăm Pa. Những cảnh sinh hoạt mang đậm ý vị sâu xa thấm đẫm hồn quê, hồn người. Mỗi vũ điệu đều có sức cuốn hút kì lạ làm nàng công chúa cành vàng lá ngọc, đài các kiêu sa của Đại Việt rung động ngây ngẩn. Chế Mân sủng ái Huyền Trân tới mức, rảnh việc triều chính liền đến bên nàng ân ái mặn nồng, âu yếm chiều chuộng, trò chuyện như một tri kỉ. Những gì nàng chưa rõ, Chế Mân giảng giải với sự am hiểu sâu sắc làm nàng thêm bội phần kính phục. Vị quốc vương Chăm Pa uy quyền tột đỉnh giờ đây đã trở thành hình bóng thân quen, tha thiết nhất trong cõi lòng nàng. Điều mà nàng không thể ngờ khi rời Thăng Long xuất giá vu quy.

*

Những ngày êm ấm bên Chế Mân tưởng chừng kéo dài mãi mãi, nhưng đó chỉ là khoảng lặng trước giông tố phũ phàng. Không ít lần nàng bắt gặp ánh mắt ngùn ngụt hờn ghen của vương hậu Bhaskaradevi và Tapasi. Họ tỏ rõ thái độ khó chịu mỗi khi gặp nàng, lời lẽ xách mé như xói vào tai. Lại thêm sự ác cảm của một số đại thần và hoàng thân quốc thích. Không có Chế Mân bên cạnh, họ công khai thóa mạ nàng bằng những lời lẽ cay nghiệt. Từng câu, từng chữ như mũi kim nhọn cắm vào đầu tê buốt. Với họ, nàng là cái gai mọc ngược trong hoàng gia, là nguyên nhân Chăm Pa bị mất châu Ô, châu Rí. Lòng nàng cay đắng ngập tràn, nhưng chẳng thốt nên lời. Nỗi oan này chẳng ai thấu tỏ, bởi việc dâng đất làm sính lễ vốn là sự tự nguyện của quốc vương Chăm Pa. Nàng không hề có quyền định đoạt. Hơn nữa, từ khi đặt chân tới đây, nàng chưa từng can dự việc triều chính, không tranh quyền đoạt lợi, chỉ an phận thủ thường. Với nàng, tình yêu nồng ấm của Chế Mân là tất cả, người đàn ông đã chiếm trọn trái tim và đem đến cho nàng những khoảnh khắc ngây ngất hạnh phúc. Nàng không kể sự tình với Chế Mân. Bởi gần đây, mỗi lần gặp, gương mặt quốc vương luôn đượm nét ưu tư, mỏi mệt. Chế Mân từng tâm sự với nàng, triều đình xảy ra nhiều chuyện rối ren khó bề giải quyết ổn thỏa. Chế Mân không nói rõ ra. Huyền Trân cũng không gặng hỏi. Nàng hiểu, phận làm vợ, chẳng giúp gì cho phu quân trong việc quốc sự, nay thêm chuyện của nàng, mối lo thêm chồng chất, áp lực càng nặng nề. Nàng còn lo sợ, nếu Chế Mân biết chuyện, vì nàng mà nổi cơn thịnh nộ ra tay trừng trị những kẻ đã buông lời xúc phạm nàng. Khi ấy, sự việc trở nên tồi tệ hơn. Bốn bên đầy rẫy thù địch, hiểm họa rình rập, nàng khó sống yên ổn được.

Một buổi chiều ảm đạm, mây xám che kín bầu trời. Huyền Trân lặng lẽ đến viếng tháp Bạc, mong ở chốn linh thiêng này, nàng tìm được thanh thản cho vơi bớt nỗi lo đè nặng trong lòng. Cạnh Huyền Trân lúc này là thị nữ Tố Uyên, người thân tín nhất luôn theo nàng từ ngày rời Thăng Long. Thấy sắc mặt Huyền Trân ủ sầu, Tố Uyên khẽ hỏi:

- Bẩm vương hậu, chuyện gì khiến người phải phiền muộn?

Huyền Trân thở dài:

- Gần đây, những lời gièm pha, xỉa xói của kẻ ác tâm khiến lòng ta bất an. Hạnh phúc tưởng chừng trong tay hóa ra lại mỏng manh như khói sương, có thể tan biến bất cứ lúc nào.

Tố Uyên cúi đầu, mắt thoáng buồn. Dù đã đôi lần nghe những lời đay nghiến độc địa nhằm vào vương hậu, nhưng vẫn nhói lòng khi nghe chính miệng người thổ lộ. Bao năm hầu cận, Tố Uyên quen nhìn vương hậu luôn giữ vẻ điềm tĩnh, chưa từng để lộ vẻ bi thương. Nay mới thấy những nỗi niềm giấu kín. Tố Uyên dè dặt thưa:

- Chẳng phải quốc vương hết mực sủng ái vương hậu sao? Ngài phải che chở người trước mọi sóng gió chứ?

Huyền Trân cười chua chát:

- Chuyện không đơn giản như ngươi nghĩ đâu.

Nàng kể hết những ấm ức chất chứa bấy lâu. Trong lòng Tố Uyên dâng lên nỗi bất bình. Nhưng phận người hầu thấp mọn, biết làm gì được. Trong cung gấm lầu son, ai ngờ sau lớp lụa là gấm vóc, vương hậu phải đối mặt bao bất trắc khôn lường.

Giọng Tố Uyên run run lo lắng:

- Vương hậu định liệu thế nào?

Trầm ngâm giây lát, Huyền Trân đáp:

- Đành phó mặc cho số phận thôi!

Trong giây phút ấy, nàng nhớ Thái thượng hoàng, người cha tôn kính hết lòng yêu thương nàng. Nỗi nhớ thương dâng đầy, nàng thầm gọi: “Phụ hoàng ơi! Người có thấu hiểu nỗi khổ tâm của con lúc này không? Hiểm họa rình rập tứ bề, không biết tai ương nào sẽ giáng xuống đầu. Đất khách quê người, đơn côi giữa cung đình lạnh lẽo, thân liễu yếu đào tơ, con biết bấu víu vào đâu để chống chọi?” Giọt lệ bi ai rơi lã chã xuống má. Huyền Trân bất giác cúi nhìn phần bụng đã nhô lên, giọt máu kết tinh tình yêu sâu nặng của nàng với Chế Mân. Mắt nàng ánh lên nét dịu dàng. Đứa con chưa chào đời ấy chính là niềm an ủi lớn lao, là ánh sáng sưởi ấm tâm hồn nàng giữa những ngày tháng ngột ngạt, khắc khoải, bất an.

*

Huyền Trân lâm bồn, hạ sinh một hoàng nam, đặt tên là Chế Đa Đa. Niềm vui làm mẹ chưa được bao lâu thì tai họa bất ngờ ập đến. Tháng năm, năm Đinh Mùi (1307), Chế Mân đột ngột băng hà. Tang tóc phủ trùm hoàng gia Chăm Pa. Hoàng cung náo động, tiếng than khóc ầm ĩ. Huyền Trân sững sờ chết lặng cả người. Đôi mắt vô hồn trân trân trông vào bức tường đối diện: “Sao lại như thế được? Mới hôm qua, chàng còn bên mẹ con thiếp, ấm áp, vững chãi. Chàng đã hứa, sẽ cùng thiếp nuôi dưỡng Đa Đa. Mình sẽ cùng nhau vượt qua mọi giông tố. Phu thê ta sẽ hạnh phúc đến bạc đầu. Tình hòa hiếu hai nước Đại Việt-Chăm Pa mãi mãi vững như bàn thạch. Lời hứa còn đó sao chàng nỡ vội rời đi...” Nàng đau đớn tột cùng, chẳng còn thiết gì đến mọi thứ chung quanh, lầm lũi như chiếc bóng, thu mình trong cung, không muốn tiếp xúc với bất kì ai. Vóc dáng ngày thêm tiều tụy, héo hon. Tố Uyên nắm chặt tay nàng, khẩn thiết:

- Vương hậu, xin người gắng gượng! Vì hoàng tử, vì bản thân người...

Tố Uyên hết lời an ủi, vỗ về giúp Huyền Trân nguôi ngoai được phần nào. Ngày tháng tiếp theo, ý nghĩa sống duy nhất của nàng bấy giờ là Chế Đa Đa. Chỉ khi ôm con, ngắm gương mặt thơ trẻ, âu yếm, vuốt ve, lòng nàng mới dịu đi đôi chút. Thế nhưng niềm vui nhỏ nhoi ấy cũng chẳng thể kéo dài. Hội đồng hoàng gia Chăm Pa quyết định buộc nàng quy hồi cố quốc. Chế Đa Đa phải ở lại vì là hoàng tử đương triều. Lệnh ban xuống khiến Huyền Trân sững sờ, bàng hoàng, hụt hẫng như rơi xuống vực sâu. Nàng lắp bắp: “Không thể… Không thể xa con lúc này. Đứa bé mới chào đời, cần bàn tay mẹ chăm sóc.” Cố nén cơn đau quặn thắt, Huyền Trân níu kéo chút hi vọng mong manh, khẩn cầu trước hội đồng hoàng gia:

- Chế Đa Đa là máu thịt của tôi. Xin các ngài rộng lòng thương cho mẫu tử tôi được đoàn tụ nơi đất Việt.

Một vị đại quan ngồi ghế chủ tọa sắc mặt lạnh tanh, giọng dứt khoát:

- Chế Đa Đa là hoàng tử Chăm Pa, huyết mạch của vương triều, có thể kế thừa ngôi vị quốc vương, không thể tùy tiện cho rời sang nước khác một cách khinh xuất. Sự an nguy của quốc gia không được đặt dưới tình riêng.

Lời đanh thép ấy như lưỡi gươm đâm thẳng vào tim nàng, xé toạc thành từng mảnh. Đau đớn đến tê dại. Đất trời như đảo lộn, cảnh vật nhuốm màu thê thương. Nhưng không thay đổi được nữa, tất cả đã an bài, Huyền Trân mang một vết thương lòng sâu hoắm, vết thương của một người mẹ bị ép buộc một cách tàn bạo chia lìa khúc ruột của mình. Và nàng chỉ còn biết cam chịu trước sự nghiệt ngã của số phận.

Tháng chín năm Đinh Mùi, sứ giả Chăm Pa đến Thăng Long dâng voi trắng báo tang cùng việc trở về Đại Việt của vương hậu Huyền Trân. Vua Trần Anh Tông liền truyền quan nhập nội đại hành khiển Trần Khắc Chung và An phủ Đặng Văn mang lễ vật vào Chăm Pa viếng tang và đưa Huyền Trân hồi hương.

Tháng mười, đoàn sứ bộ Đại Việt tới kinh thành Vijaya, hoàn tất sứ mệnh rồi cáo từ. Huyền Trân theo cùng. Nàng bảo Tố Uyên ở lại bên Chế Đa Đa, nếu xảy ra việc bất thường lập tức viết thư cấp báo. Phút chia li, Huyền Trân buồn bã ngậm ngùi nói với người thị nữ trung thành:

- Ta rời đi mà lòng không cam. Thời khắc trùng phùng biết là mấy thu? Nay chỉ còn trông cậy ở ngươi. Thay ta chăm lo cho hoàng nhi. Ơn sâu nghĩa nặng này trọn kiếp không quên.

Tố Uyên vòng tay cúi đầu cung kính đáp:

- Thưa vương hậu, tôi nguyện dốc tấm lòng thành.

Thuyền rời bến, Huyền Trân ngoái nhìn lại. Trên bờ cát trắng, Tố Uyên một mình đứng lặng trông theo, bóng hình người thị nữ thân thiết tận tình lúc tha hương dần nhòa đi trong sắc xanh bao la của trời, của biển và của quê hương xứ sở, nơi nàng yêu quý như chính mảnh đất sinh ra mình.

*

Ở Thăng Long, Huyền Trân không nguôi nhớ kinh thành Vijaya, nơi lưu dấu bao kỉ niệm ngọt ngào đẹp đẽ với những người nàng yêu thương. Nơi ấy còn có một hình hài bé nhỏ luôn hiện hữu trong tim, một giọt máu ruột thịt, xa cách ngàn trùng biết bao giờ được đoàn viên. Rồi một hôm, nàng nhận được thư Tố Uyên từ phương Nam gửi đến báo tin hoàng tử Chế Đa Đa đã mất. Hung tin như sét đánh ngang tai khiến nàng choáng váng, đất trời chao đảo, cảnh vật tối sầm, tan nát cả tâm can. Từ đó, ngày nối ngày, nàng ngồi thất thần trong cung vắng, tâm trí chìm trong nỗi đau khổ, oán hờn, tuyệt vọng. Có đêm, thao thức tới khuya, lòng thổn thức từng cơn. Trong tĩnh lặng đêm sâu, nàng nghe tiếng lòng nghèn nghẹn: “Con ơi! Mẹ có lỗi với con, không làm tròn bổn phận của một người mẹ với núm ruột của mình. Trời già cay nghiệt buộc mẹ phải rời xa con còn chưa chịu buông tha, nỡ nhẫn tâm bắt mẫu tử ta phải lìa xa mãi mãi…” Tiếng khóc ấm ức vang vọng suốt đêm trường lạnh lẽo…

Được bẩm báo về tình trạng Huyền Trân, Trần Nhân Tông vô cùng lo lắng, từ thiền tự Trúc Lâm, ngài vội vã về kinh, ân cần khuyên nhủ nhưng vẫn không thể xua đi khổ lụy trong lòng nàng. Đến cuối năm Tân Hợi (1311), nàng quy y cửa Phật, được ban pháp danh Hương Tràng, lập chùa dưới chân núi Hổ tu hành. Ni sư Hương Tràng dốc lòng chăm lo đạo pháp, khuyến khích dân khai hoang lập ấp, hướng dẫn cách trồng lúa theo giống mới của người Chiêm, bốc thuốc chữa bệnh, dạy chữ cho trẻ em… Công đức ấy khiến dân chúng khắp vùng xa gần ngưỡng mộ, kính trọng, biết ơn. Ngỡ rằng Hương Tràng đã dứt nợ hồng trần, mấy mươi năm an nhiên nơi cửa Phật như mặt nước hồ bình lặng. Thế nhưng không ai biết, suốt ngần ấy thời gian, đêm đêm, ni sư vẫn lặng lẽ ra nằm trên chiếc phản gỗ ngoài hiên, ngước nhìn bầu trời thật lâu như muốn tìm kiếm một điều gì, rồi thở dài sườn sượt…

Năm Canh Thìn (1340), trăng thượng tuần tháng giêng tỏa sáng dịu dàng trên bầu trời tĩnh mịch. Dù thân thể đã suy kiệt vì bệnh tật, ni sư vẫn gắng gượng ra nằm trên chiếc phản quen thuộc, mắt hướng lên những vì sao khi mờ khi tỏ trên vòm trời xanh sẫm. Bỗng như có phép mầu nhiệm, muôn ngàn vì sao bừng sáng lấp lánh một lúc rồi kết thành vô số cánh tay nuột nà, mềm mại, uyển chuyển trong vũ điệu quen thuộc. Vũ điệu ru con! Vũ điệu đã khắc sâu vào tâm khảm ni sư từ đêm trăng năm nào trên vườn ngự uyển kinh thành Vijaya. Trong không gian ảo huyền, những vũ nữ gương mặt hiền hòa, nụ cười dịu dàng, thân hình uyển chuyển, thực hiện những động tác mềm mại người mẹ đưa nôi, ru con với cả tấm lòng yêu thương vô bờ bến. Đến đoạn cuối, mắt các vũ nữ hướng lên tầng không, những cánh tay trắng muốt vươn cao, bàn tay xòe ra như muốn nâng con lên với ngàn sao lung linh, nơi bao điều tốt đẹp sẽ đến với con. Khoảnh khắc ấy, Hương Tràng nhớ Chế Đa Đa. Nỗi nhớ dâng trào, quặn thắt. Hình ảnh đứa con bé bỏng tội nghiệp chập chờn trước mắt rồi tan vào trong trăng. Vầng trăng nửa vành bỗng tỏa hào quang rực rỡ. Từ trong làn sáng bạc, một bóng dáng dần hiện rõ. Chế Mân! Thân ảnh quen thuộc đến nao lòng. Chế Mân đứng lặng, mắt ấm áp yêu thương. Lời xưa chợt vang vọng bên tai. Câu nói mà suốt đời Hương Tràng không bao giờ quên: “Vì nàng, ta có thể đánh đổi cả thế gian này.” Hương Tràng bàng hoàng thổn thức. Những cảm xúc vùi sâu mấy mươi năm nơi cửa thiền bỗng trỗi dậy mãnh liệt. Hương Tràng muốn cất lời nhưng nghẹn lại, muốn bước tới nhưng không thể cử động. Chỉ có đôi mắt ngân ngấn lệ đăm đắm nhìn Chế Mân cho tới khi hình bóng mờ dần rồi tan biến trong trăng…

Sáng hôm sau, các nhà sư trong chùa phát hiện ni sư Hương Tràng đã viên tịch. Lạ thay, trên môi người thoáng hiện nụ cười an yên. Nụ cười ấy theo vị ni sư khả kính vào giấc ngủ nghìn thu.

Phường Bình Định, ngày 15/8/2025

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Người gieo hạt phù sa nghĩa tình. Bút ký của Diệp Bần Cò

Baovannghe.vn- Tôi về ấp Sơn Ton, xã Cù Lao Dung, thành phố Cần Thơ vào một ngày tháng tám, khi miền Tây vào giữa mùa mưa, mang theo những cơn giông bất chợt.
Làng không còn xanh bóng tre

Làng không còn xanh bóng tre

Baovannghe.vn - Trước hết, hãy thử dừng lại một chút để hiểu cho tường tận hai tiếng “làng”. Làng (thôn, bản, tổ dân phố) - không chỉ là một đơn vị cư trú đơn giản trên bản đồ.
Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Bộ GD&ĐT: Có thể điều chỉnh Thông tư 29

Baovannghe.vn - Bộ GD&ĐT vừa có văn bản gửi một số sở GD&ĐT lấy ý kiến góp ý dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 29/2024/TT-BGDĐT ngày 30/12/2024 của Bộ trưởng Bộ GDĐT (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm.
Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Dàn nhạc Giao hưởng Đức biểu diễn tại Việt Nam nhân 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao

Baovannghe.vn - Hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức (1975 – 2025), vào hai đêm 20 và 21/12, tại Nhà hát Hồ Gươm, Hội Nhạc cổ điển Việt Nam tổ chức hòa nhạc mang tên Tấu khúc lưỡng cực – A Rhapsody of Two Worlds.
Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ